Thứ Năm, 28 tháng 2, 2008

36 TỬ HUYỆT

Trước đây bí thuật nầy vẫn luôn bị đóng kín trong giới võ lâm, ít người biết được công phu nầy, và cũng ít người tập luyện được cách điểm huyệt… và các vị thầy dạy theo lối bí truyền nên dần dần bị thất truyền .

Toàn bộ thân thể có 108 huyệt nguy hiểm, trong đó có 72 huyệt nói chung khi bị điểm, đánh không đến nổi gây ra tử vong, còn lại 36 huyệt trí mạng có thể dẫn đến tử vong, còn gọi là TỬ HUYỆT.
Trong khi va chạm quyền cước, có thể trở thành SÁT THỦ nếu thực hiện đòn đánh vào các Tử Huyệt như: Bách Hội, Thần Đình, Thái Dương, Nhĩ Môn, Tình Minh, Nhân Trung, Á Môn, Phong Trì, Nhân Nghênh, Đản Trung, Cựu Vĩ, Cự Khuyết, Thần Khuyết, Khí Hải, Quan Nguyên, Trung Cực, Khúc Cốt, Ưng Song, Nhủ Trung, Nhũ Căn, Kỳ Môn, Chương Môn, Thương Khúc, Phế Du, Quyết Âm Du, Tâm Du, Thanh Du, Mệnh Môn, Chí Thất, Khí Hải Du, Vi Lư, Kiến Tỉnh, Thái Uyên, Tâm Túc Ly, Tâm âm giao, Dung Tuyền .
36 huyệt nguy hiểm ở trên, sau khi bị điểm trúng đều có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng.

A.- VỊ TRÍ CÁC HUYỆT NGUY HIỂM VÙNG ĐẦU, CỔ:

1.- Huyệt Bách hội:
- Vị trí: Tại giao điểm của tuyến chính giữa đỉnh đầu và đường nối liền phần đầu nhọc trên của 2 tai.
- Khi bị điểm trúng: Sẽ choáng váng, ngã xuống đất bất tỉnh nhân sự.
2.- Huyệt Thần Đình:
- Vị trí: Từ mép tóc trước trán lên 5 cm.
- Khi bị điểm trúng: Sẽ choáng váng, ảnh hưởng đến não.
3.- Huyệt Thái Dương:
- Vị trí: tại chổ lõm phía đuôi chân mày.
- Khi bị điểm trúng: Sẽ choáng váng, mắt tối lại, ù tai.
4.- Huyệt Nhĩ môn:
- Vị trí: Tại chổ khuyết ở trước vành tai, khi há miệng hiện ra chỗ lõm.
- Khi bị điểm trúng: Ù tai, choáng đầu ngã xuống đất.
5.- Huyệt Tình minh:
- Vị trí:Tại chỗ góc khóe mắt trong, đầu chân mày.
- Khi bị điểm trúng: Có thể hôn mê hoặc hoa mắt ngã xuống đất.
6.- Huyệt Nhân trung:
- Vị trí: Dưới chóp mũi.
- Khi bị điểm trúng: Sẽ choáng đầu, hoa mắt.
7.- Huyệt Á môn:
- Vị trí: Sau ót, chỗ lõm giữa gai đốt sống cổ thứ nhất và đốt sống cổ thứ 2.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào khu diên tuỷ (một phần não sau nối tuỷ sống) sẽ không nói được, choáng đầu, ngã xuống đất bất tỉnh.
8.- Huyệt Phong trì:
- Vị trí: Phía sai dái tai, chổ lõm dưới xương chẩm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào trung khu diên tuỷ, hôn mê bất tỉnh.
9.- Huyệt Nhân nghênh:
- Vị trí: Yết hầu, ngang ra 2 bên 5cm.
- Khi bị điểm trúng: Khí huyết ứ đọng, choáng đầu.

B.-.. CÁC HUYỆT NGUY HIỂM Ở VÙNG BỤNG, NGỰC:

1.- Huyệt Đản trung:
- Vị trí: Giữa hai đầu vú.
- khi bị điểm trúng: Nội khí tản mạn, lòng dạ hoảng loạn, thần trí không được rõ ràng.
2.- Huyệt Cưu vĩ:
- Vị trí: Trên rốn 15cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào động mạch vách bụng, tĩnh mạch, gan, mật, chấn động tim, đọng máu, có thể gây tử vong.
3.- Huyệt Cự khuyết:
- Vị trí: Trên rốn 9cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào gan, mật, chấn động tim, có thể gây tử vong.
4.- Huyệt thần khuyết:
- Vị trí: Tại chính giữa rốn.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào thần kinh sườn, chấn động ruột, bàng quan, tổn thương đến khí, làm thân thể mất đi sự linh hoạt.
5.- Huyệt Khí hải:
- Vị trí: Dưới rốn 4cm.
- khi bị điểm trúng: Đập vào vách bụng, tĩnh động mạch và sườn, phá khí, máu bị ứ lại làm thân thể mất đi sự linh hoạt.
6.- Huyệt Quan Nguyên:
- Vị trí: Dưới rốn 7cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào động mạch vách bụng dưới, tĩnh mạch và thần kinh sườn gây chấn động ruột, khí huyết ứ đọng.
7.- Huyệt Trung cực:
- Vị trí: Dưới rốn 10cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào động mạch vách bụng, tĩnh mạch và chấn động thần kinh kết tràng chữ S, thương tổn khí cơ.
8.- Huyệt Khúc cốt:
- Vị trí: Tại xương khung chậu bụng dưới - hạ bộ.
- Khi bị điểm trúng: Thương tổn đến khí cơ toàn thân, khí huyết ứ đọng.
9.- Huyệt ưng song:
- Vị trí: Trên vú, tại xương sườn thứ 3.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào thần kinh sườn và thần kinh trước ngực cho đến động, tĩnh mạch, chấn động làm tim ngừng cung cấp máu, gây choáng váng.
10.- Huyệt Nhũ trung:
- Vị trí: Tại chính giữa đầu vú.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào thần kinh sườn và động mạch sung huyết (nhồi máu) phá khí.
11.- Huyệt Nhũ căn:
- Vị trí: Dưới đầu vú 1 đốt xương sườn.
- Khi bị điểm trúng: Do phía trong bên trái là quả tim, nên khi bị điểm trúng sẽ đập vào tim, gây sốc dễ dẫn đến tử vong.
12.- Huyệt Kỳ môn:
- Vị trí: Dưới núm vú, tại xương sườn thứ 6.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào gan, lá lách, chấn động cơ xương, khí huyết ứ đọng.
13.- Huyệt Chương môn:
- Vị trí: Tại tuyến giữa nách, mút cuối xương sườn nổi số 1, khi co khuỷu tay khép vào nách, nó nằm ngang với điểm cuối cùng của khuỷu tay.
- Khi bị điểm trúng: Vì phí trong bên phải là gan, nghiêng phía dưới là lá lách, nên khi bị điểm trúng sẽ đập vào gan hoặc lá lách, phá hoại màng cơ xương, cản trở sự lưu thông của máu và tổn thương đến khí.
14.- Huyệt Thương khúc:
- Vị trí: Giữa bụng tại bao tử, ngang ra 2 bên 5cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào thần kinh sườn và đọng mạch vách bụng, chấn đọng ruột, tổn thương khi, ứ đọng máu.

C.- CÁC HUYỆT NGUY HIỂM TẠI PHẦN LƯNG, EO VÀ MÔNG:

1.- Huyệt Phế du:
- Vị trí: Tại mỏm gai đốt sống ngực thứ 3, ngang ra 2 bên lưng 4cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào động mạch xương sườn thứ 3, tĩnh mạch và thần kinh, chấn động tim, phổi, phá khí.
2.- Huyệt Quyết âm du:
- Vị trí: Tại phía dưới mỏm gai đốt sống ngực thứ 4, ngang ra 2 bên lưng 4cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào thành tim, phổi, phá khí cơ, dễ gây tử vong.
3.- Huyệt Tâm du:
- Vị trí: Tại mỏm gai đốt sống ngực thứ 5, ngang ra 2 bên lưng 4cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào thành tim, phá huyết, thương tổn khí.
4.- Huyệt Thận du:
- Vị trí: Tại mỏm gai đốt sống eo lưng thứ 2, ngang ra 2 bên lưng 4 cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào quả thận, tổn khí cơ, dễ dẫn đến liệt nửa người.
5.- Huyệt Mệnh môn:
- Vị trí: Giữa đốt sống thắt lưng thứ 2 và thứ 3.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào xương sườn, phá khí cơ, dễ gây ra liệt nửa người.
6.- Huyệt Chí thất:
- Vị trí: Tại mỏm gai đốt sống eo lưng thứ 2 ngang ra 2 bên 6cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào động mạch eo lưng, tĩnh mạch và thần kinh, chấn động thận, thương tổn nội khí.
7.- Huyệt Khí hải du:
- Vị trí: Tại mỏm gai đốt sống eo lưng thứ 3, ngang ra 2 bên 4cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào quả thận, cản trở huyết, phá khí.
8.- Huyệt Vĩ lư:
- Vị trí: Tại giữa chỗ hậu môn và xương cùng.
Khi bị điểm trúng: Gây trở ngại đến sự lưu thông của khí trên toàn thân, khí tại huyệt Đan điền không dâng lên được.

D.- CÁC HUYỆT VỊ NGUY HIỂM Ở TAY VÀ CHÂN:

1.- Huyệt Kiên tỉnh:
- Vị trí: Chỗ cao nhất phần vai.
- Khi bị điểm trúng: Cánh tay tê bại, mất đi sự linh hoạt.

2.- Huyệt Thái uyên:
- Vị trí: Ngữa lòng bàn tay, tại chỗ lõm lằn ngang cổ tay.
- Khi bị điểm trúng: Cản trở bách mạch, tổn thương nội khí.

3.- Huyệt Túc tam lý:
- Vị trí: Bờ dưới xương bánh chè xuống 6cm, trước xương ống chân ngang ra ngoài 1 ngón tay.
- Khi bị điểm trúng: Chi dưới tê bại, mất đi sự linh hoạt.

4.- Huyệt Tam âm giao:
- Vị trí: Tại đầu nhọn mắt cá chân thẳng lên 6 cm, sát bờ sau xương ống chân.
- Khi bị điểm trúng: Chi dưới tê bại, mất linh hoạt, thương tổn khí ở huyệt Đan điền.

5.- Huyệt Dũng tuyền:
- Vị trí: Nằm tại lòng bàn chân, khi co ngón chân xuất hiện chỗ lõm.
- Khi bị điểm trúng: Thương tổn đến khí tại huyệt Đan điền, khí không thể thăng lên được, phá khinh công.


Tóm lại, 36 huyệt nguy hiểm ở trên, sau khi bị điểm trúng đều có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng.

HƠI THỞ VÀ ĐỜI SỐNG

HƠI THỞ VÀ ĐỜI SỐNG

PHẦN I : TẦM QUAN TRỌNG CỦA HƠI THỞ:

Trong con người vốn qúy nhất là sức khoẻ, nếu mình hiểu và bảo vệ thì sẽ rất tốt, người ta thường nói: “của bền tại người ”, cố ý nhắc, cái gì muốn bền lâu vốn do nơi mình biết gìn giữ nó đúng cách. Sức khoẻ là vốn tự có từ Trời đất đã ban cho, thường khi sức khoẻ đã bị đe dọa thì sự âu lo về nó mới thực bắt đầu. Nhiều người sống biết rất nhiều, học giỏi nhiều thứ… ngay chính nhiều người trong ngành y tế chuyên chăm sóc bệnh tật, điều trị sức khoẻ cho nhiều người … khi được hỏi về “THỞ” thường cũng ít người biết sâu, biết cặn kẽ. Trong công tác điều trị, với nhiều bệnh nhân và rất nhiều thứ bệnh tật nói chung, chúng tôi nhận thấy đa phần bệnh nhân không biết thở đúng, thở tốt… nó cũng chính là một phần nguyên nhân của bệnh tật, đồng thời cũng là một phương cách hỗ trợ điều trị hữu hiệu nhiều chứng bệnh nan giải, nó là phương thế hữu hiệu trong vấn đề dự phòng bệnh tật. Vì thế khi nghiên cứu và tập luyện một phương pháp thở nào đó sẽ góp phần to lớn cho công tác gìn giữ sức khoẻ, giảm thiểu nhiều tốn kém vô ích và thời gian sống trong tình trạng bệnh tật nói chung. Chúng tôi nghiệm ra một cách bảo vệ nó tương đối dể dàng thuận tiện với mọi người, trong nhiều hoàn cảnh, không tốn kém. Với phương châm “dể hiểu, dể làm và làm có hiệu quả” Đó là phương pháp luyện khí, luyện hơi thở.

Hơi thở là dấu hiệu của đời sống, dấu hiệu của sức khoẻ và cũng là dấu hiệu của tâm hồn. Khí bình ([1]) thì tâm bình, khí nghịch thì tâm loạn, Chỉ hít vào rồi thở ra, cử động rất bình thường nhưng hết sức trọng yếu. Cổ nhân thường nói luyện khí công công phu, là điều khiển sự hít thở này lâu ngày, có phương pháp cụ thể. Chính vì nó có giá trị to lớn về bảo vệ sức khoẻ. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ chuyên vào luyện cho khí bình mà thôi. Chú trọng luyện khí dưỡng sinh, nghĩa là gíúp cho sức khoẻ một phần ít hao tổn trong đời sống thường ngày. Khi khí bình thì tâm lẫn thân được nghỉ ngơi có chủ động.

Người ta sống là nhờ thở, ngừng thở là chết. Để thấy tầm quan trọng của vấn đề luyện khí với đời sống con người, nếu thở tốt thì đời sống sẽ tốt. Dù chúng ta làm việc này việc nọ, có thể làm, cũng có thể chưa làm… đều được. Nhưng với “THỞ” thì luôn luôn phải thực hiện, vì đó là sự tồn tại có tính bản năng của sự sống.

Hơi thở là dấu của “Tâm”. Mọi hoạt động, diễn giải cuộc đời đều từ “Tâm”. Người xưa có câu “Tâm chủ thần minh, Tâm chủ lục phủ ngũ tạng” ([2]). Nếu hơi thở là dấu của “Tâm” thì cực kỳ trọng yếu cho đời sống của mỗi người. Khi luyện khí cũng có nghĩa là dưỡng tâm vậy

Trong các nguyên nhân gây bệnh, nguyên nhân thất tình,

Bi, thương, hỷ, nộ, ái, ố, kinh. ([3])

thường là nguyên nhân trọng yếu gây tổn thương tạng phủ, thường chậm, lâu dài và chắc chắn, nhất là các bệnh tật mãn tính. Luyện khí có thể chế ngự phần lớn, để thất tình không quá mức gây hại tạng phủ, dẫn đến cơ hội cho bệnh tật sinh ra. Đây là một công phu tu dưỡng lâu dài, kiên nhẫn, bền chí. Tuy vậy nếu biết rõ bản chất vấn đề, có được người hướng dẫn tốt thì không khó lắm và thường chắc chắn thành công. Luyện khí không phải có biết mà thành, thường phải luyện, thêm với thời gian (lòng kiên nhẫn) thì sẽ thành, nên có nhiều người biết, nhưng thành công của việc luyện khí thì ít là vậy.

Làm sao luyện khí thì chế ngự được thất tình?

Vì khí là dấu của “Tâm”, vì thế khi khí bình thì “Tâm” tự nhiên bình. Thường khí bình thì hơi thở điều hoà, tạng phủ thư thái thần thái ung dung.

“khí” rất khó bình, hay thay đổi, không có hình tướng, không mùi vị, không có màu sắc, không đầy, không vơi, không có trước, không có sau…. làm sao có thể nhận biết được khí đã bình?

Chúng ta sẽ nhận biết khí qua hơi thở, vào và ra. Im lặng và để tâm yên tĩnh, chúng ta sẽ thấy khí vào và đi ra. Lâu dần sẽ thấy tốc độ của khí, dung lượng, tính cách, nóng lạnh, độ nông sâu… qua một thời gian sự biết về hơi thở của chúng ta (mỗi người tự biết không ai có thể biết thay được) sẽ rõ ràng và cụ thể hơn. Khi đã thấy thì dễ dàng điều khí được, thay đổi khí theo ý muốn, mỗi ngày tiến bộ một ít. Lâu ngày thành thói quen nên dễ dàng hơn.

Khì hít vào gọi là vay, thở ra gọi là trả. Vay trả đều hoà, tự nhiên thoải mái là khí bình.

Như khi thấy bóng đèn sáng đều là chúng ta biết điện ổn định, khi thấy chớp tắt liên tục là chúng ta biết có sự cố bất thường. Vì hơi thở là dấu của tâm- khi hơi thở đều hoà là tâm bình- tâm bình thì tạng phủ được yên, nếu hơi thở không đều thì tâm sẽ không bình- tâm không bình thì tạng phủ không yên - dẫn đến nhiều bệnh tật

Tâm có ý nghĩa đến nhiều cơ quan tạng phủ trong con người, vì thế khi Tâm bình an thì bệnh tật ít sinh ra, dẫu có sinh ra cũng dễ lành, ít hao tổn nhiều, lỡ lúc gặp bệnh hiểm nghèo cũng dể vượt qua được. Vậy hơi thở bình sẽ trở thành một dấu hiệu của sức mạnh xuất phát từ bên trong. Luyện khí chính là chế ngự, gìn giữ cho khí luôn luôn bình. Chính nhờ công phu luyện tập lâu dài, hun đúc thành thói quen phản xạ tự nhiên, dần dần hơi thở không cần kiểm soát vẫn cứ bình, đó là lúc thành quả ban đầu và cũng là nền tảng đã thành công. Ngay khi hơi thở đầu tiên đều đặn thì đã có dấu hiệu thành công rồi, nhưng sự thành công này không bền do chưa có công phu. Nhiều người cứ nói tập khí công là rất khó, không thể thành công được là do cầu quá cao, do muốn có cường lực, thần thông… chúng ta không nhắm đến điều này. Sự thật điều này rất khó và cũng không cần thiết. Chúng ta chỉ tập làm sao hơi thở sâu và được điều hoà trong mọi hoàn cảnh phức tạp của cuộc sống, chính điều này sẽ mang lại tác dụng kỳ diệu thật sự mỗi ngày mỗi chứng đạt hơn. Có thể gọi hơi thở dưỡng sinh.

Rất ít người có được khí Bình (khí điều hòa) luôn luôn, [khí bình là dấu hiệu cả tâm hồn lẫn thể xác tốt ]. Vì thế chúng ta luyện khí chính là tạo lập sự tốt này cho cả sức khoẻ thể xác và tâm hồn. Thường chúng ta hay nhận thấy các hình thái rối loạn của khí như sau:

Khí Đoản , là chính khí hư. Khí đỏan có nghĩa là hơi thở thường ngắn, yếu, dể đứt quãn, hay có những cơn ngừng thở ngắn, người hay mệt nhọc, nếu có bệnh thường khó lành, nếu không có bệnh thì dể mắc bệnh khi gặp hoàn cảnh thay đổi. Nếu trong người thấy hơi thở của mình hay đứt quãn, hay hụt hơi thì càng nhanh chóng tập phương pháp này. Khí đỏan thường hay ở người có bệnh lâu ngày hoặc người có bẩm thụ khí tiên thiên èo uột.

Khí Nghịch , là khí thăng giáng bất thường, dể nóng, hay cáu gắt… những hành động thường thất thường. Thường ở trên người mạnh khỏe, công việc nhiều, buồn vui lẫn lộn…. Khí nghịch dể dẫn đến các bệnh cấp như cao huyết áp, tai biến mạch máu não, bệnh hoang tưởng, bệnh hay gây sự… Nếu thường luyện khí thì tâm tính tự nhiên điều hòa hơn, nếu có bệnh cũng dễ điều trị.

Khí Loạn , là khí bất thường, khi thì nhanh, khì ngừng, khi thì rất chậm… nói chung là do ảnh hưởng rất nhiều đến sự hoảng lọan lo âu kinh sợ vô cớ, stres… Thường ở trên người yếu ốm suy nhược hoặc người có hoàn cảnh khó khăn lâu ngày không giải quyết được. Khí loạn làm cho công năng các phủ tạng không yên, xáo trộn thất thường… lâu ngày dẫn đến tổn thương các công năng hoạt động các cơ quan gây các bệnh chứng, ban đầu nhẹ sau nặng dần do không điều trị đúng nguyên nhân.

Khí Uất , là khí không thăng được. Có số người trong lòng luôn bị đè nén, hoặc bị người khác áp bức, hoặc nỗi oan chưa giải được… làm khí không thông sướng điều hoà uất kết lâu ngày trong cơ thể gây nên không ít những bệnh tật.

Khí Thịnh , là khí thông thoát quá sung mãn, gặp nhiều sự vui sướng… có nhiều người trúng số, hoặc được thành quả lớn bất ngờ… thì có thể đột tử ngay lúc đó hoặc bị một cơn bệnh cấp tính như nhồi máu cơ tim, hoặc cơn cao huyết áp…. Cũng là thường theo lẽ “vật cùng tắt phản”.

Xin được trình bày sơ như vậy để chúng ta thấy hơi thở là dấu hiệu cực kỳ quan trọng của đời sống cả tâm hồn và thể xác, người ta có thể nhìn cách thở là có thể đoán một phần bệnh tật trong con người, vì đa phần người ta thường thở theo cơ chế tự nhiên không điều khiển. Để không bị trôi theo một cách thụ động các tình trạng xấu của hơi thở, để phát huy động lực cải thiện tình trạng không tốt, tình trạng sức khoẻ , để dưỡng tâm yên tĩnh, và rất nhiều lợi ích vô cùng to lớn dành cho ai nỗ lực bước chân vào…. chúng ta cùng bắt đầu luyện khí công dưỡng sinh công phu.

Các điều kiện cần thiết tối thiểu như sau

Yên tĩnh , cả thân và cả tâm([4]). Thường ít cầu (cầu tài, cầu sắc, cầu danh, cầu lợi...cầu lợi cho mình.) thì tâm mới thường lạc do câu Lão tử nói, “tri túc thường lạc”

Chuyên Cần , ngày nào cũng tập một chút, chừng 15 phút là giỏi rồi.

Giới luật , Không được uống rượu trước lúc tập, sau ăn ít nhất hai giờ, đời sống đơn sơ đạm bạc thì tập rất có kết qủa.

Phương pháp

Tư thế , Ngồi trên ghế, xếp bằng, ngồi kiết già, có thể nằm nếu mệt… làm sao lưng thẳng, thoải mái yên tĩnh, có thể ngồi lâu mà không khó chịu là được. (Trong các tư thế, tư thế ngồi Kiết già là tư thế tốt nhất, nhưng khó nhất. Vì thế trong thời gian đầu không nên ngồi Kiết già để tập, mà nên tập ngồi Kiết già riêng trong ngày cho quen, sau đó sẽ vừa ngồi Kiết già vừa tập thì sự khó khăn mới không còn, sự tập dễ thành hơn).

Cách thở , Thời gian hít vào bằng thời gian thở ra bằng mũi một cách thoải mái tự nhiên, tuyệt đối không gượng ép, gắng sức, căng thẳng, sau tập thấy mệt mõi là sai. Khí vào ra như làn khói êm đềm thư thái là tốt. Thường ban đầu thở hay bị tán loạn không đều, lâu dần tự nhiên nó sẽ đều, đó gọi là công phu luyện khí (khí công công phu). Khi luyện thở tâm hồn phải thư thái tự nhiên, miệng như mĩn cười (gọi là nụ cười nội thị)([5]). Xin tóm lại với bài thơ sau:

Ý thủ tại KHÍ. (ý thủ có nghĩa là theo, đừng rời).
Sâu, đều, êm, nhẹ. (khí phải sâu, mà đều, êm và nhẹ).
Thần thái ung dung. (tinh thần phải thoải mái).
TỰ NHIÊN thoải mái. (tất cả công việc luyện khí làm một cách tự nhiên không nôn nóng).

Phương pháp này tuy đơn giản nhưng thật sự đã đem lại một sức mạnh to lớn cả về thân lẫn tâm. Chúng tôi hy vọng sẽ góp một phần nhỏ làm niềm vui cuộc sống của mọi người được thấm đượm hơn như từng hơi thở qua từng giây phút của cuộc đời.

Phần II: CÁCH LUYỆN KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH.

Nhận định tình hình sức khoẻ chung: khi gặp tình trạng Khí kém, hơi thở ngắn, nhỏ, yếu, mau mệt. Để giải quyết vấn đề này không gì bằng luyện khí.

KINH NGHIỆM THỰC HÀNH: Phần nầy có thể gọi tắt là LUYỆN THÂN.

Người mới tập thường gặp nhiều khó khăn, vì thế giai đọan đầu nên chỉ ngồi TƯ THẾ (phần tư thế xin xem phần dưới) cho ngay ngắn trang nghiêm là được rồi, nếu có thể ngồi được chừng 20 –30 phút là rất tốt. Người ta thường hỏi khi ngồi như thế thì thở như thế nào? Xin trả lời là NÓ MUỐN THỞ SAO THÌ TÙY THEO Ý NÓ. – Khi ngồi như vậy thì Tâm phải nghĩ đến chuyện gì? Xin trả lời: NÓ MUỐN NGHĨ CHUYỆN GÌ THÌ CỨ NGHĨ. – vì sao vậy? vì giai đọan nầy chỉ chú trọng NGỒI YÊN, còn mọi sự khác sẽ liệu định sau, nếu ngồi yên được coi như việc Luyện Khí đều tiên đã thành, đây là căn bản nhất, người không qua được giai đọan nầy thì coi như không thể tập tiếp theo được.

PHƯƠNG PHÁP LUYỆN KHÍ: giai đọan nầy gọi là LUYỆN KHÍ. Sau khi Luyện Thân đã tốt một thời gian, thì khi ngồi thì lập tức Luyện Khí liền.

HÍT VÀO:
Đếm thầm trong trí: 1, 2, 3, 4, 5. Có ý đưa khí xuống vùng khí hải (dưới rốn chừng 3cm). Sau đó nghỉ một giây.

THỞ RA:
Cũng đếm thầm trong trí: 1, 2, 3, 4, 5. Nghỉ một giây, rồi lại hít vào.

Chú ý khi luyện khí:
Lưỡi để lên vòm miệng.
Miệng như mỉm cười.
TÂM buông bỏ mọi sự, chỉ nhận biết khí vào và ra mà thôi.

NƠI TẬP:

Chổ nào cũng được, miễn là nơi tương đối sạch sẽ, yên tĩnh. Tuy nhiên khi ở trong nơi làm việc, học tập mà cảm thấy có thể tập được thỉ đều có thể dụng ý tập cũng hay.

THỜI GIAN: lúc nào cũng được, tuy nhiên không nên đang đói quá hoặc no quá mà tập. Mỗi ngày phải có vài lần tập cho quen dần, sau đó cơ thể tự động luôn luôn điều khí một cách rất tự nhiên.

TƯ THẾ:
Ở mọi tư thế, nhưng tốt nhất là tư thế kiết già hoặc bán già. Nói chung nằm ngồi đi đứng đều được, do dụng TÂM nhiều chứ không chú trọng tư thế. Mọi lúc mọi nơi.

KẾT QUẢ:

Không nên chưa tập mà hỏi kết quả như thế nào. Vì như thế là do TÂM muốn cầu thành mà loạn không yên, dễ gây chán nãn. Rất nhiều người cứ hỏi tập có lợi ích gì, trong lúc chưa tập bao giờ, vì không thể trả lời một điều có được bằng tập luyện mà được diễn tả bằng ngôn từ được.

Lợi ích của tập luyện là vô cùng to lớn.

Khi tập, người tập sẽ tự khắc nhận ra kết quả, không nên hỏi làm gì vô ích. Quan trọng nhất là siêng năng tập luyện, không nên bỏ ngày giờ nào hoặc có cơ hội tốt mà không tranh thủ tập luyện.

DƯƠNG PHÚ CƯỜNG

(1) Khí đây không phải nói về không khí, mà nói về tình trạng , tính cách thở của sự hô hấp.

(2) Tâm ở đây không phải trái tim,Tâm đây là tạng Tâm, có ý nói một số chức năng rộng lớn rất nhiều mà chúng tôi không tiện trình bày trong bài viết này. Có thể nói sơ đó là một thực tại vừa hình thể vừa khí hoá , vừa vô hình, hay cũng chính là tâm hồn của mỗi con người. Tâm chủ thần minh: về tinh thần, sự sáng suốt, sự điều hoà , sự bình an hay rối loạn…đều do Tâm. Tâm chủ cả lục phủ ngũ Tạng, là tất cả các cơ quan trong con người. Các cơ quan này hoạt động không ngoài Tâm được . Do vậy khi can thiệp làm cho Tâm được bình , là can thiệp toàn bộ cơ thể con người .

(3) Buồn, đau xót,vui, giận, yêu, ghét, kinh hãi. Con người có thể sau một đêm đau buồn đã già đi hàng chục tuổi. Hoặc khi một cơn giận thoáng qua , có thể chết tại chổ , hoặc có người mừng quá trong các cuộc thắng độ đá banh cũng chết dễ dàng…nếu những xúc động nhẹ , âm ĩ thì thường gây những trạng thái tâm lý bất thường , lâu ngày dẫn đến bệnh lý.

(4)thân yên tĩnh thì ai cũng biết dễ dàng, ngồi yên là thân được yên. Nhưng để tâm được yên tĩnh thì vô cùng khó khăn. Người ta đã dùng vô số phương pháp để tu tập cho tâm được yên, trong đó có giữ giới luật như : ăn chay để lương thực thanh bạch làm tâm hồn được yên, không uống rượu hoặc các chất kích thích để thần được yên. Trừ bớt nhiều sự dín mắc ở trong tâm bằng cách đóng ngũ quan: (tai, mắt, mũi, miệng, xúc), để không nhiễm phải lục trần (cảnh).Nhưng có rất nhiều người đã giữ giới, ăn chay , không uống rượu … mà tâm vẫn không thanh tịnh, có thể họ chưa chu toàn hoặc phải cần một vị thầy trực tiếp dìu dắt nếu có thành tâm mới được . Bí mật của trình thuật về tâm thanh tịnh , yên tĩnh không thể diễn tả trọn vẹn bằng lời, đây chỉ gượng dùng thuật ngữ rất sơ sài để nói vể một thực tại siêu việt ,vô cùng thâm diệu, nên thế nào cũng nhiều sơ sót. Nhưng tâm thanh tịnh là nền tảng của nhiểu vấn đề chứ không phải chỉ riêng về luyện khí để bảo vệ sức khoẻ.

(5)trong bài thơ TÌNH THƯƠNG :“tập tánh tình thương – tình thương thành thật – tình thương tự tánh – tại thế thành thiên”,chúng tôi xin mạn phép nhắc lại. Nụ cười nội thị có nghĩa là nụ cười từ bên trong, chúng ta không thể có được nụ cười đó khi bên trong chứa đựng quá nhiều sự tham lam, hận thù , vị kỷ …nụ cười sẽ hiện rõ nét khi bên trong có tính tánh thương thành thực.

Khí Công & Dưỡng Sinh
I. Khí công là gì?

"Khí" người Trung Hoa phát âm là "Chi" hay "Qi", "Ki" ở người Nhật Bản, "Ghee" ở người Đại Hàn và "Prana" ở người Ấn Độ. "Khí" nghĩa thông thường có liên quan đến "Không khí" hoặc "Chất Hơi", một chất không hình, dễ di động, dễ phân tán, dễ tích tụ, tính co dãn có thể tạo nên sức ép lớn mạnh, tùy theo số lượng của nó.

"Công" do chữ "công phu", người Trung Hoa phát âm là "Kungfu", có nghĩa là việc làm được thực hiện trong một số lượng thời gian.

Do đó, "khí công" có thể hiểu là một tiến trình hít thở không khí, để gia tăng nguồn sinh lực của thể chất lẫn tinh thần trong con người. Trong đó, "dưỡng khí" (oxygen)được hấp thụ qua không khí, và "thán khí" (carbon dioxide) được loại trừ ra ngoài cơ thể. Đây là hai yếu tố chính yếu trong việc gia tăng nguồn sinh lực cơ thể.

Trong võ thuật cổ truyền đông phương, khí công còn được gọi là "nội công", một công phu tập luyện "tán tụ nội khí", triển khai tối đa sức mạnh thể chất lẫn tinh thần, để áp dụng vào kỹ thuật chiến đấu, cũng như gia tăng sức khỏe thân tâm.

II. Lược Sử Khí Công:

Trong ý nghĩa quân bình hơi thở, khí công được bắt nguồn từ thuở xa xưa, từ khi có sự hiện diên loài người trên quả đất này. Căn cứ vào văn hóa cổ truyền đông phương, khí công đã được áp dụng qua các phương pháp thực hành, và triết lý dẫn đạo, hầu hết, trong ba môn học: Y học, Đao học, và Võ học.

Theo y như Hoàng Đế Nội Kinh (2697 – 2597 B.C. trước Tây Lịch), và sách Dịch Kinh (2400 B.C. trước Tây lịch), nền tảng Đông Y học được dựa trên lý thuyết nguồn khí lực, Âm Dương và Ngũ Hành để lý giải, điều trị bệnh tật và tăng cường sức khỏe con người.

Vào thời nhà Thương (1783 – 1122 B.C trước Tây lịch), người Trung Hoa đã biết dùng những dụng cụ bén nhọn bằng đá, để châm chích vào các huyệt đạo trên cơ thể, nhằm gây ảnh hưởng đến sự dẫn truyền nguồn khí lực, trong việc trị bệnh cho con người.

Vào thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch, trong cổ thư Đạo Đức Kinh, tác giả Lão Tử, một nhà hiền triết Trung Hoa, đã đề cập đếnn vai trò hơi thở trong kỹ thuật luyện khí, để giúp con người kéo dài tuổi thọ. Sử liệu Trung Hoa cũng cho thấy rằng các phương pháp luyện khí đã có nhiều tiến bộ, vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc (770 – 221 B.C. trước Tây lịch). Sau đó, trong thời nhà Tần đến nhà Hán (221 B.C. trước Tây lịch đến 220 A.C. sau Tây lịch), một số sách dạy luyện khí công đã được biên soạn bởi nhiều vì y sư, thiền sư và đạo sĩ. Các phương pháp truyền dạy tuy có khác nhau, nhưng vẫn có chung những nguyên lý vận hành khí lực trong cơ thể.

Vào thế kỷ thứ ba sau Tây lịch, nguyên lý về khí lực đã được minh chứng hiệu quả bởi y sư Hoa Đà, qua việc áp dụng kỹ thuật châm cứu, để gây nên tình trạng tê mê cho bệnh nhân, trong lúc giải phẫu. Cũng như, ông đã sáng chế những động tác tập luyện khí "Ngũ Cầm Hí", dựa theo tính chất và động tác của 5 loại thú rừng như: Cọp, Nai, Khỉ, Gấu và Chim.

Vào năm 520 – 529 sau Tây lịch, tổ sư Bồ Đề Đạt Ma, người Ấn Độ, tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, tỉnh Hồ Nam, ngài đã soạn ra sách Dịch Cân Kinh, đ dạy các môn đồ phát triển nguồn khí lực, tăng cường sức khỏe trên đường tu đạo, cũng như, thân thể được cường tráng, gia tăng sức mạnh trong việc luyện võ.

Về sau, dựa vào nguyên lý khí lực này, các đệ tử Thiếu Lâm đã sáng chế thêm những bài tập khí công như: Bát Đoạn Cẩm, Thiết Tuyến Nội Công Quyền, Nội Công Ngũ Hình Quyền...

Theo truyền thuyết, vào triều đại nhà Tống (950 – 1279 sau T.L.), tại núi Võ Đang, đạo sĩ Trương Tam Phong sáng chế bài nội công luyện khí Thái Cực Quyền, gồm những động tác giúp người tập luyện cường kiện sức khỏe thân tâm.

Về sau, có rất nhiều bài tập khí công được sáng chế bởi nhiều võ phái khác nhau. Dần dần, các võ phái nhỏ, ít người biết đến, đều bị mai một, cùng với những phương pháp truyền dạy bị lãng quên trong quá khứ. Đến nay, một số ít các bài võ luyện khí công còn được ghi nhận qua một số tài liệu hạn hẹp của Trung Hoa như: Dịch Cân Kinh, Bát Đoạn Cẩm, Thiết Tuyến Nội Công Quyền, Nội Công Ngũ Hình Quyền, Thái Cực Quyền thuộc ba hệ phái của Trần Gia, Dương Gia và Vũ Gia, Bát Quái Quyền, Hình Ý Quyền, Lục Hợp Bát Pháp Quyền...

III. Triết Lý Khí Công

A. Vũ trụ quan

Theo quan niệm Đông phương, khởi nguyên sự hình thành của vũ trụ, vạn vật được bắt nguồn từ một khối "Khí" đầu tiên gọi là "Thái Cực", bành trướng vô cùng tận. Sau tiến trình nội tại, khối "Khí" này được phân thành hai nhóm khí đối nghịch nhau: "Khí Âm" và "Khí Dương", được gọi là "Lưỡng Nghi". Hai nhóm "Khí Âm" và "Khí Dương" này chạm vào nhau, để sanh ra khí thứ ba, mà Lão Tử gọi là "Xung Khí". Từ đó, vũ trụ, vạn vật được hình thành. Đạo đức Kinh có ghi: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật, vạn vật phụ âm nhi bão dương, xung khí dĩ vi hòa." Học giả Trương Hoành Cừ có nói:

"Khí tụ lại thành hình, khí tán đi hình loại, muôn vật trở lại Thái Hư." Vạn vật biến chuyển, thay đổi không ngừng theo định luật phổ quát mà Kinh Dịch có ghi: "Sinh, Trưởng, Thâu, Tàng." Cũng như, Phật Giáo quan niệm: "Sinh, Trụ, Dị Diệt." Do đó, khí là nguồn gốc, là sinh lực của vạn vật và vũ trụ.

Hai tính chất căn bản là Âm và Dương của khí được quân bình, nằm trong ba loại khí tổng quát: Thiên Khí, Địa Khí và Nhân Khí.

Thiên Khí đến từ vũ trụ thiên nhiên, với lực sống động vĩ đại huyền diệu, giúp cho đại vũ trụ thiên nhiên được vận chuyển trong một trật tự tuần hoàn. Thí dụ: Mặt trăng, mặt trời, thái dương hệ, tất cả bầu trời không gian vô tận...đều là những nguồn chứa thiên khí. Thiên khí đóng một vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến thời tiết, khí hậu và thiên tai. Thí dụ như những hiện tượng gió thổi, mưa rơi, bão tố, sấm sét...d xảy ra đều nhằm mục đích tái tạo sự quân bình Âm Dương trong thiên khí.

"Địa Khí đến từ quả đất, cũng như từ sự thấm những nhuần, hoặc ảnh hưởng tác dụng của thiên khí trên quả đất. Địa khí còn được sinh ra bởi từ trường của quả đất, cũng như, hơi nóng được phát ra từ trong lòng đất. Những vùng đất thường xảy ra núi lửa, hay những đường rạn nứt trong lòng đất, để tạo nên những tai họa động đất, chính làn nơi phát ra nguồn địa khí. Sự di chuyển của địa khí được thể hiện qua các hiện tượng như: đất cát di chuyển theo dòng nước lũ, để mang bồi đắp tạo nên những nơi cồn đảo. Trái lại, những vùng mất đất sẽ trở thành sông sâu, lớn rộng. Mặt khác, trong lúc có nhiều mưa, mặt đất trở nên đầy nước ngập lụt. Trái lại, khi khí trời khô, nóng gắt, hạn hán, mặt đất trở nên khô cằn, nứt nẻ. Tất cả những hiện tượng nói trên đều tạo nên sự thay đổi địa khí, do bởi sự mất quân bình âm dương tính trong địa khí.

"Nhân Khí" là sinh lực con người.`con người là một tiểu vũ trụ, nằm trong sự chi phối của đại vũ trụ thiên nhiên. Do đó, nhân khí phải chịu ảnh hưởng vào thiên khí và địa khí.

B. Nhân Sinh Quan

Con người khi còn là thai nhi trong bụng mẹ, được nuôi dưỡng bằng nguồn sinh lực (Nhân Khí) của bà mẹ, qua đường cuống rốn thai nhi. Sau khi chào đời, qua tiếng khóc đầu tiên, hài nhi biết hít thở, hấp thụ nguồn Thiên Khí từ bên ngoài. Nguồn thiên khí đầu tiên này, khi được vào trong cơ thể hài nhi, biến thành nguồn "Dinh Khí", và tác dụng làm nguồn sinh lực (Nhân Khí) của bà mẹ sãn có trong hài nhi, trở thành "Vệ Khí" được thể hiện bởi hai dòng: khí nóng (Dương) và khí lạnh (Âm). Dòng khí nóng (Dương) chạy lên phần trên cơ thể đến các bộ phận: tim gan, phổi và não bộ trong khi dòng khí lạnh (Âm) chạy xuống phần dưới cơ thể, đến các bộ phận: bụng dưới, thận, sinh dục và hai chân. Tiếp theo, sự sinh tồn của hài nhi cần phải được nuôi dưỡng bởi nguồn Nhân Khí từ bên ngoài, do ảnh hưởng của Thiên Khí và Địa Khí, qua môi trường không khí trong sạch , nước uống và thực phẩm (đọn vật và thực vật). Nguồn Nhân Khí (sinh lực) này được lưu chuyển điều hòa, trong những đường ống ngang dọc của hệ thống Kinh, Mạch, Lạc, Huyệt, để liên hệ đến các tạng phủ (các bộ phân như: Tim, phổi, bao tử, lá mía, ruột già, ruột non, gan, thận, túi mật và bàng quang...)

Với tuổi thọ tăng dần, các đường ống dẫn khí lực này, càng ngày trở nên trì trệ, yếu kém, trong việc cung cấp sinh lực (Nhân Khí) nuôi dưỡng cơ thể, do đó, sức khỏe con người dễ trở nên suy yếu, bệnh tật, nếu không được bồi dưỡng đúng mức.

Để tái tạo sức khỏe bình thường, việc khai thông hệ thống kinh mạch , cũng như, quân bình Ân Dương tính trong nguồn sinh lực (nhân khí) rất cần thiết cho cơ thể con người. Ơû điểm này, Đông Y Học đã áp dụng một trong những trị liệu pháp như: dược phẩm (thuốn hóa học ở các lá, thân và rễ cây), Châm cứu pháp, Án ma pháp (thuật xoa bóp trên các kinh mạch, và ấn ép trên các huyệt đạo), Khí công trị liệu (phương pháp hô hấp) và tể dục dưỡng sinh (áp dụng các động tác vận chuyển để đả thông kinh mạch)...

Trong phép dưỡng sinh, người ta cần phải biết sống hòa hợp với luật thiên nhiên, để khai thác tối đa lợi thế của Thiên Khí và Địa Khí, trong việc giữ quân bình âm dương tính cho Nhân Khí của con người. Từ đó, sức đề kháng trong cơ thể được kiện toàn, sẵn sàng tiêu trừ các mầm móng bệnh chứng, có thể xảy ra cho con người.

Ngoài ra, viện tập luyện khí công rất ích lợi, giúp cho Nhân Khí được điều hòa, làm chậm sự thoái hóa của các tế báo trong cơ thể, cũng như, điều hợp thuận lợi với Thiên Khí và Địa Khí từ bên ngoài.

IV.Phương Thế Thực Hành

Trong khí công gồm có ba loại thở căn bản: thở sâu (hay thở thấp, hoặc thở Đan Điền), thở Ngực (hay thở trung bình) và thở cao. Để thực tập các bài khí công, học viên có thể áp dụng một trong ba tư thế chánh yếu như: thế đứng, thế ngồi và thế nằm. Trong mổi tư thế chánh này còn được chia ra kàm nhiều tư thế phụ như sau:

Với tư thế đứng còn có thế đứng tự nhiên, thế đứng chân trước chân sau, và thế đứng trung bình tấn (hai chân dang rộng ra hai ben trái phải).

Với tư thế ngồi gồm có tư thế ngồi tréo chân như: ngồi Kiết Già, ngồi Bán Già, ngồi Xếp Bằng (ngồi tréo tự nhiên) và ngồi quỳ gối.

Với tư thế nằm gồm có nằm thẳng người với lưng tựa phía dưới.

Trong các tư thế đứng, ngồi, và nằm, tư thế đứng mang lại nhiều ích lợi hơn. Cho nên, các tư thế đứng đã đã được áp dụng tối đa trong các bài tập khí công của quyền thuật gia. Sau đây là những ích lợi của tư thế đứng:

- Tư thế đứng rất thuận tiện, khi tập ở những nơi công cộng,ngoài trời, nơi có không khí trong lành như: công viên, đồng cỏ, rừng cây, bờ hồ, bờ sông, bờ biển, và các vùng ngoại ô....

- Tư thế đứng còn giúp cho máu lưu thông dễ dàng trong hệ thống tuần hoàn. Do đó, nguồn khí lực dễ chuyển dẫn đến các bộ phận trong khắp cơ thể.

- Ngoài ra, tư thế đứng tránh được tình trạng ru ngủ như ở hai tư thế ngồi và nằm. Cho nên, học viên có đủ thời gian hoàn tất việc tập luyện.

V. Hiệu Quả Của Khí Công

Việc tập luyện khí công có thể tạo ra những tác động, ảnh hưởng tốt đẹp, giúp ích cho chức năng sinh lý của các bộ phận trong cơ thể như: bộ phận hô hấp, bộ phận tiêu hóa, hệ thống tuần hoàn máu, và thần kinh hệ,...Cũng như, tái tạo sự hoạt động của nhiều triệu mao quản bị đình trệ, và làm chậm sự thoái hóa của các tế bào trong cơ thể.

Trong phép trị bệnh, việc áp dụng khí công đều đặn, cùng với thói quen ẩm thực hợp phép kiêng cử, cơ thể tái tạo sức khỏe bình thường cho bệnh nhân về các chứng: áp huyết cao hay thấp, bệnh tim, bệnh về đường máu, bệnh suyễn, bệnh táo bón, bệnh tiêu hóa, bệnh nhức đầu, bệnh nhứ mỏi khớp xương và bắp thịt...

Ngoài ra, việc tập luyện khí công còn giúp ích cho học viên gia tăng sức mạnh tinh thần như: tập trung tư tưởng, tính tự chủ, tự kiểm soát nội tâm, tâm hồn thanh tịnh, và bình tĩnh để có một đời sống tình cảm an hòa, khắc phục được những trở ngại bất thường trong đời sống loạn hàng ngày. Để đạt được thành quả trong lúc tập luyện khí công, tùy theohoan cảnh, học viên nên tuân hành nghiêm chỉnh theo một thời dụng biểu tập luyện đều đặn hàng ngày, với những bài tập thích nghi, từng bước một, tuần tự tiến hành. Nếu vội vã, đốt giai đoạn tập luyện, sức khỏe của học viên dễ bị tổn thương. Cũng như, trong giai đoạn đầu tiên tập khí công, học viên nên cẩn thận tránh những khuyết điểm. Việc tập luyện sai phép có thể tạo nên những biến chứng, gây ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe, và làm trở ngại cho cơ thể trong việc tập luyện.

(sưu tầm từ "Khí Công Dưỡng Sinh" của Vũ Đức Hiền Âu)

Những trường phái khí công

NHỮNG TRƯỜNG PHÁI KHÍ CÔNG

Có năm trường phái khí công chánh: Trường Phái Lão Học, Trường Phái Phật Học, Trường Phái Khổng Học, Truờng Phái Y Học và Trường Phái Võ Thuật.

Lão tử sống cùng thời với Khổng Tử. Khổng Tử có công san định Kinh Dịch. Trước cảnh điêu linh thống khổ của dân chúng, cũng lập nên một học thuyết nhất quán về Vũ Trụ và con người "Sinh ra vạn vật không phải là Trời mà là Ðạo". "Có một vật do sự hỗn hợp mà thành, vừa trống không, vừa yên lặng, đứng yên một mình mà không biến cải, trôi đi mọi tâm pháp diệt ái dục, để Tinh đầy đủ, rồi từ đó Khí sung mãn, và Thần vững vàng; Thần không còn dao động sẽ hòa đồng với Vũ Trụ".

Còn phương châm xử thế có thể thâu gọn vào một câu: "Ðạo của Thánh Nhân, Làm Mà Không Tranh". Trích trong Ðạo Ðức Kinh.

Trong những người nối nghiệp của Lão Tử phải kể đến Trang Tử, với cuốn Nam Hoa Kinh Trang Tử nói là con người thật sự phải thở tới gót chân. Ý muốn nói phải biết thu hút khí từ bàn chân. Trang Tử cũng chủ trương hoà mình với vạn vật và thuận theo tự nhiên. Bởi vì vạn vật là một. "Giữ tâm cho điềm đạm, Khí cho điềm tĩnh, thuận theo tính tự nhiên của mọi vật mà không theo ý riêng của mình, thì thiên hạ trị vậy".

Khổng Tử và Mạnh Tử lập ra thuyết Nhân Nghĩa và Ðạo Trung Dung trong xử thế. Riêng về Khí Công, người tập luyện phải làm chủ được tư tưởng và có đức độ.Sau này những thi sĩ nỗi tiếng như Lý Thái Bạch, Tô Ðông Pha, Bạch Cư Dị, Thân Tôn Trung cũng lấy khí công để rèn luyện Tâm Trí.

Trong Y Học Trung Quốc có 2 phương pháp nghiên cứu:

1. Phương pháp Ngoại Tượng Giải Phẩu, tức tìm hiểu con người bằng phẩu tích, hay bằng các nghiên cứu vật lý như y học hiện đại tại các phòng thí nghiệm.

2. Phương pháp Nội Thị Công Phu, trong đó học giả bằng nội quan tự nhận xét những biến động của cơ thể trong mối tương quan với ngoại cảnh. Chính phương pháp thứ hai này mà người xưa khám phá ra Khí; Khí ở trong cơ thể cũng như ở ngoài cơ thể rồi dựa vào Kinh Dịch và thuyết Âm Dương quân bình với thuyệt Ngũ Hành sinh khắc mà xây dựng Khí Công trong điều trị.

Khí Công bắt đầu được áp dụng từ năm 200 trước Công Nguyên vào võ thuật khi đã có kiến thức vững vàng về Khí, vận Khí vào đường Kinh Mạch, phát Khí và truyền Khí.

Khí Công tập luyện để phát triển và vận Khí trong Cân (Cân bao bọc các cơ quan như Tim, có Tâm Bào và có công dụng che chở, nuôi dưỡng, tái sinh) và trong Gân Cốt. Riêng trong Xương Khí có công dụng tái sinh tủy xương và huyết cầu. Ðối với Phủ Tạng để phát triển tối đa Khí trong Cân nên tập theo giờ vận chuyển của các Kinh liên hệ.

Phương Pháp Tấn Công Của Khí Công Võ Thuật

1. Ðiểm Huyệt: Có tất cả 108 huyệt mà có thể điểm để đánh bại đối phương. Trong đó có 36 huyệt chính và 12 huyệt trọng yếu mà điểm mạnh có thể gây trọng thương nặng hay tử vong, với điều kiện là điểm trúng giờ vận chuyển của kinh mạch liên hệ, như huyệt Thái Dương liên hệ với Kinh Vị vào giờ Thìn(7-9 giờ). Ðánh mạnh vào các huyệt Ðốc Mạch làm giảm chức năng của cơ quan liên hệ, làm Khí đình trệ tại một vùng của cơ thể và gây tổn thương nặng dần.

2. Bế Mạch là một loại điểm huyệt bằng cách đánh mạnh hay bóp chặt một số huyệt ở cổ gần Ðộng Mạch Chủ làm máu không lên não được và đối phương bị ngất. Nhưng ấn nhẹ có mức độ vào vùng này chỉ làm cho đối phương ngủ.

3. Bế Tức: làm cho đối phương không thở được và ngất xỉu. Bóp chặt hay đánh mạnh vào Yết Hầu, đánh mạnh vào một số huyệt ở vùng dưới Núm Vú, vùng Dạ Dày cũng đạt được mục tiêu này.

Sự Phát Triển Của Khí Công

Tại Trung Quốc hiện nay, Khí Công là một bộ môn đang được nghiên cứu sâu rộng trong nghành Y Học. Hoa Kỳ là nước thứ nhì đang cho phát triển mạnh khí công tại nhiều viện khoa học nhờ sự cộng tác của cộng đồng người Hoa tại các thành phố lớn như New York (Viện Sinh Lý Học Và Tâm Lý Học)

Khí Công cũng đã bắt đầu được phổ biến và nghiên cứu tại Châu Âu. Nguyễn Văn Nghị là một trong những nhà Châm Cứu Học viết về Khí Công dựa vào thuyết Tinh-Khí-Thần để lập ra Vũ Thuật Thụy Ðiển. Thuyết này được Ci Bot phổ biến ở Châu Âu.

Từ "Do" có nghĩa là Ðạo trong Khí Công, là nguồn gốc của những môn võ thuật Nhật Bản hiện thời (như môn Judo, Aikido, Kendo...). Ðiểm chính để thành công là luyện đan điền bằng tập thở bụng và tập trung tư tưởng; Khi Khí đã được tích tụ ở Ðan Ðiền thì người tập Khí Công có thể điều dộng Khí vào các Kinh Mạch, nhất là Nhâm Ðốc Mạch để luyện Vòng Âm Dương Tiểu Chu Thiên, hay Ðại Chu Thiên, hay tới một vùng nào đó của cơ thể như tay chân để tấn công hay đỡ đòn.

Các Môn Khí Công Ðặc Biệt

1. Khí Công Dương Pháp tức Khí nóng của môi trường bên ngoài làm cơ sở tập luyện với mục tiêu tăng Dương Khí trong cơ thể. Có 2 phương pháp:

a. Thái Dương Công là tập luyện dưới ánh sáng mặt trời buổi chiều, buổi sáng rồi buổi trưa.
b. Hỏa Nhiệt Công là tập luyện bên cạnh lửa hoặc trên vật nóng.

2. Khí Công Âm Pháp là lấy Khí lạnh âm làm cơ sở luyện tập (Thái Âm Công và Hàn Thạch Công)

Yoga và Khí Công - Liên Hệ Tương Ðồng Và Khác Biệt

Khí Công cũng như Yoga nhằm mục tiêu bảo vệ sức khỏe, điều trị bệnh tật giúp sống lâu và rèn luyện con người có phẩm chất cao, trí tuệ thông suốt. Tuy nhiên Yoga thiên về khả năng siêu thực hơn là Khí Công.

Yoga quan niệm trong người có cái Cực Dương là "Vishnou" trụ tại sọ não và cái Cực Âm là "Kundalini" trụ tại đốt sông cùng của cột sống. Giữa hai trung tâm này là những Luân Xa tức "Chakra" tích tụ "Prana" (Khí). Mục đích của Yoga là tập luyện để "Kundalini" tiến lên theo đường Tủy Sống ("Sashumna") qua các Luân Xa và hợp nhất với "Vishnou". Khi đó con người nhận biết được tự bản thân và đạt được hoàn thiện tột bực.

Yoga cũng như Khí Công quan niệm Khí hay Prana là một chất vô hình sinh ra năng lượng và là cơ sở của sự sống, mà những rối loạn hay suy giảm là đầu mối của bệnh tật. Prana tức Khí ở khắp nơi trong Vũ Trụ cũng như ở trong thân thể mà có thể lấy Ý điều khiển được. Một nguồn cung cấp Prana cho cơ thể là Phổi. Phổi thu hút Khí trời trong đó có Prana. Bởi vậy làm chủ được hơi thở là căn bản của Yoga, giống như Khí Công.

Khí trong Khí Công vận hành theo quy luật Âm Dương và Ngũ Hành của Dịch Lý. HATHA Yoga bao hàm từ Ha là Mặt Trời ám chỉ Dương, Tha là mặt trăng ám chỉ Âm nhưng không đi sâu vào triết lý Âm Dương. Yoga không đề cập đến Ngũ Hành với những quy luật để nương vào đó tập luyện và điều trị bệnh.

Yoga cũng nói đến "Nadi" tức Kinh Mạch mà con số lên tới 200 đến 300 ngàn, trong đó có 10-14 Nadi chánh với 3 Nadi quan trọng nhất là "Ida", "Pingala" nằm ở hai bên Tủy Sống và "Sushumna" nằm ở giữa. Con đường vận hành chánh của Prana là Sushumna mà trong đó có các Luân Xa.

Khí Công vận chuyển Khí chủ yếu theo Kinh Mạch qua các Huyệt mà vòng chính là Tiểu Chu Thiên tức Nhâm Ðốc Mạch.

Khí Công chủ trương thở bằng Cơ Hoành và Bụng là chính. Thở nhẹ nhàng , êm dịu, ngoại trừ trong Cách Thở Nội Lực có Hít Sâu và Nín Thở Lâu.

Trong Yoga nhấn mạnh vào việc kéo dài thời gian ngưng thở sau mỗi lần hít thở sâu. Hít vào sâu tích lũy Prana. Nín hơi còn giúp rửa sạch đến tận đáy những Phế Nan nhỏ nhất và từ đó đào thải những cặn bã còn tồn đọng trong máu, và gián tiếp tăng cường chức năng của toàn thể Phủ Tạng.

Khí Và Thất Tình

Một trong những nguyên nhân làm rối loạn Khí và từ đó gây ra bệnh là Thất Tình, Vì:

"Giận quá làm Khí Nghịch lên
Bi ai làm Khí tiêu tan
Sợ hãi làm Khí không lưu hành được
Lo nghĩ làm Khí kết lại"

Xóa bỏ hay làm dịu Thất Tình trong tập luyện Khí Công, để tâm bình là ngăn chặn sự rối loạn Khí.

Tài liệu quý giá
Giáo Sư Thạc Sĩ Ngô Gia Hy- Ngô Gia Lương.

Sách Tham Khảo
1. "Thiết Bố Sam Khí Công" trình bày cách tăng cường áp lực Khí trong Cân Cơ, vận Khí trong Xương.
2. "Luyện Dục lực Nam, Luyện Dục Lực Nữ" luận về phương pháp Tiết Dục và nhất là giao hợp mà không phóng Tinh ở người Nam mà vẫn có cực Khoái Cảm.
3. "Phương Pháp Xoa Bóp" trình bày cách xoa bóp các cơ quan để duy trì khí lực và hồi xuân. Tác Giả phải kể tới Mantakchia người Mỹ gốc Thái.

Tuấn Ngô (sưu tầm và tổng hợp)

Lục tự khí công

LỤC TỰ KHÍ CÔNG

Dưỡng sinh bằng những phương pháp khí công là một bộ phận quan trọng của y học cổ truyền phương Đông. Chương “Nhiếp Sinh” của sách Nội Kinh đã đề cập đến nguyên nhân mà những bậc chân nhân của thời thượng cổ có thể diên niên ích thọ. Đó là “Thuận theo trời đất, nắm lấy âm dương, hô hấp tinh khí, độc lập thủ thần”. Qua nhiều thế hệ, đã có rất nhiều phương pháp khí công được biết đến. Tuy nhiên, Lục tự khí công có lẽ là phương pháp duy nhất phối hợp giữa kỹ thuật hô hấp và sự rung động của âm thanh nhằm khai mở huyệt đạo và khử trược lưu thanh.

LỤC TỰ KHÍ CÔNG

Những kỹ thuật dùng âm thanh hoặc âm nhạc để chữa bệnh hoặc để dẫn dắt con người thể nhập vào những trạng thái tâm lý hoặc tâm linh nhất định đã được biết đến từ xưa, ở nhiều dân tộc cũng như nhiều nền văn hóa khác nhau, trong tôn giáo cũng như trong y học. Theo quan niệm Thiên nhân tương ứng của khí công cổ đại, mỗi âm thanh hoặc ý niệm đều tương ứng với một loại khí nhất định trong cơ thể cũng như ngoài vũ trụ. Do đó ta có thể vận dụng âm hưởng với cường độ và trường độ thích hợp để điều chỉnh những rối loạn bệnh lý hoặc nâng cao nội khí trong cơ thể.

Lục tự khí công còn gọi là Lục tự quyết là một phương pháp khí công đặc thù, đã ứng dụng nguyên tắc trên vào việc chữa bệnh dưỡng sinh. Bí quyết của phương pháp là hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng. Khi thở ra kết hợp với niệm tự quyết. Lời quyết không phát ra thành tiếng nhưng tâm vẫn ghi nhận được. Đây là một loại tĩnh công. Công pháp không cần bất cứ một động tác hoặc chiêu thức gì. Cách thở cũng đơn giản: Thở 2 thì, không nín hơi. Tuy nhiên, sự kết hợp đặc biệt giữa hô hấp và tự quyết có thể tạo ra những xung lực có hiệu ứng khai mở và thanh tẩy rất kỳ diệu. Tương truyền Lục tự khí công do Xích Tùng Tử, một đạo trưởng tu luyện pháp trường sinh ở núi Hoa Sơn nghiên cứu, ứng dụng và truyền bá cho đời sau. Lục tự quyết gồm 6 chữ: Suy, Hô, Hư, Ha, Hí, Hu. Mỗi chữ ứng với một loại khí hoặc tạng, phủ nhất định trong cơ thể con người.

Chữ SUY ứng với Thận, Bàng quang thuộc Thủy khí.

Chữ HÔ ứng với Tỳ Vị thuộc Thổ khí.

Chữ HƯ ứng với Can Đởm thuộc Mộc khí.

Chữ HA ứng với Tâm Tiểu trường thuộc Hỏa khí.

Chữ HÍ ứng với Phế, Đại trường thuộc Kim khí.

Chữ HU ứng với Tâm bào, Tâm tiêu thuộc Hỏa khí.

THỰC HÀNH

Tắm rửa sạch sẽ, quần áo nới lỏng, chọn nơi yên tĩnh, thoáng mát, không có ruồi muỗi.

Ngồi xếp bằng thông thường, ngồi bán già, hoặc ngồi trên ghế, hai chân chạm đất. Hai lòng bàn tay đặt trên hai đùi. Eo hơi thót lại. Vai buông lỏng. Cằm hơi thu vào. Lưng thẳng. Hai mắt khép hờ.

Hít vào bằng mũi. Hít vào xuống bụng dưới. Chỉ cần biết trong ý niệm rằng ta đang hít vào một luồng Thiên khí từ đỉnh đầu đi thẳng xuống bụng dưới. Không cần quan tâm khí đi như thế nào, cũng không cần cố hít vào quá sâu.

Thở ra bằng miệng. Trong khi thở ra, liên tục phát ra một tự quyết. Ở mỗi hơi thở, tự quyết chỉ phát ra một lần và ngân vang cho đến cuối hơi. Thở ra chậm, nhẹ và đều đồng thời từ từ ép sát bụng vào. Thì thở ra dài hơn thì hít vào. Trong lúc thở ra, môi và lưỡi ở vị trí thích hợp để phát ra âm quyết đã chọn. Tuy nhiên chỉ phát bằng ý niệm mà không phát ra thành tiếng sao cho chỉ có sự rung động trong cổ họng và nghe được rõ ràng trong tâm mà vẫn không phát âm ra ngoài. Như vậy sẽ chỉ có hơi thở thoát ra miệng. Âm quyết chỉ hiện diện trong tư tưởng của người tập, người ngoài không nghe thấy.

Đến cuối hơi thở miệng lại ngậm lại, đầu lưỡi chạm nướu răng trên và tiếp tục hít xuống bụng dưới để bắt đầu chu kỳ thở tiếp theo. Hơi thở này kế tiếp hơi thở kia, khoan thai, không thô, không gấp.

Đối với người bình thường có thể tập mỗi âm khoảng 24 hơi thở theo một thứ tự nhất định từ âm này đến âm kia. Mỗi ngày có thể tập 1 hoặc 2 lần lúc bụng trống. Trường hợp chữa bệnh có thể tập trung làm nhiều lần hơn khi đến những âm có liên quan đến những rối loạn bệnh lý trong cơ thể.

Tập trung sức chú ý vào âm quyết trong thời gian thở ra là khâu quan trọng nhất trong Lục tự quyết. Do đó, không nên nhẩm đếm hơi thở để khỏi phân tán tư tưởng. Có thể sử dụng cách lần chuỗi bằng tay với những chuỗi 24 hạt (hoặc hơn nữa) để kiểm soát được số hơi thở ở mỗi âm quyết.

ĐẶC ĐIỂM

- Sự rung động của những âm tiết trong quá trình thực hành Lục tự quyết có công năng kích hoạt để khai mở một số đại huyệt dọc theo hai mạch Nhâm và Đốc, giúp tăng cường sự trao đổi khí giữa Nội khí và Thiên Địa khí và gia tăng chân khí.

Lục tự khí công là một phương pháp hô hấp tích cực. Thở sâu xuống bụng dưới giúp phát sinh nội khí ở Đan điền. Kéo dài hơi thở ra, giúp gia tăng sự trao đổi chất ở các mô và các tế bào. Ép sát bụng dưới có thể tăng cường chức năng xoa bóp nội tạng của cơ hoành, kích thích tiêu hóa và sự lưu thông khí huyết.

Đối với hệ thần kinh, việc tập trung tư tưởng trong quá trình thực hành Lục tự quyết, đặc biệt thì thở ra chậm và dài, có tác dụng điều hòa thần kinh giao cảm, giúp giải tỏa những triệu chứng bệnh lý do căng thẳng tâm lý gây ra.

Do quá trình thở khí ra, Lục tự khí công được xem là một loại công phu thiên về tả thực và khử trược. Trược khí không chỉ thoát ra bên ngoài theo hơi thở ra ở miệng mà còn qua các huyệt vị và kinh lạc tương ứng với âm quyết và cả tay chân. Do đó trường hợp thực hành để chữa những bệnh như u, bướu, xơ hóa…, người tập không nên ngồi kiết già để trượt khí dễ dàng thông thoát ra 2 chân.

Tác dụng khử trược hay thanh tẩy của Lục tự khí công không phải chỉ bắt đầu từ kinh lạc hoặc phủ, tạng mà phát triển ngay từ những trung tâm năng lượng ở cột sống nên còn gọi là tẩy tủy. Điểm đặc biệt của Lục tự khí công là hoạt hóa hai đường kinh, một lên một xuống ở hai bên của cột sống, qua đó gia tăng khả năng thanh hóa tủy sống. Sau một thời gian thực hành, những người có khí cảm tốt có thể nhận biết được một luồng khí từ xương cùng đi lên dọc theo rãnh bên trái của cột sống. Khi đến đỉnh đầu, luồng khí này sẽ theo rãnh bên phải cột sống đi xuống xương cùng. Đến xương cùng, luồng khí này sẽ tự động kích hoạt chơn hỏa đi lên mạch Đốc. Hiện tượng này trùng khớp với mô tả của những đạo sư Yoga về 3 nguồn năng lượng chính dọc theo cột sống. Luồng Ida mang năng lượng âm ở rãnh bên trái, luồng Pingala mang năng lượng dương ở rãnh bên phải và luồng hỏa xà Kundalini theo đường Soushoumna ở giữa cột sống đi lên. Đối với Lục tự khí công, đây là một quá trình phát triển dần dà và tự nhiên, người tập không nên tùy tiện vận hành.

LƯU Ý

Không phát tự quyết ra thành tiếng để tránh tán khí.

Khi thực hành Lục tự quyết, sau quá trình xả trược khí sẽ là quá trình phản hồi tự nhiên thu thanh khí thông qua chính những huyệt vị, kinh lạc mà trược khí đã được thải, ra. Do đó Lục tự khí công nên phối hợp với tĩnh tọa để có thể tận dụng và phát huy quá trình phản hồi này trong việc thu Thiên Địa khí để tăng cường nội khí. Tĩnh tọa liền sau khi thực hành Lục tự quyết. Thời gian tĩnh tọa không giới hạn nhưng tối thiểu nên bằng với thời gian thực hành Lục tự quyết.

Tĩnh tọa được đề cập ở đây là phương pháp ngồi thiền tự nhiên, không cần vận khí, chỉ cần đạt đến tình trạng thư giãn và nhập tĩnh. Nhập tĩnh là tiến đến quá trình hòa hợp mà người xưa gọi là “Thiên Nhân hợp nhất” . Về mặt chữa bệnh, hòa hợp là sự cân bằng giữa Âm và Dương và sự hài hòa giữa ngũ tạng, lục phủ. Đây cũng là quá trình tự điều chỉnh, tự hồi phục của hệ thần kinh trung ương thông qua sự điều hòa của thần kinh giao cảm và cơ chế tương tác giữa thần kinh, thể dịch và nội tạng. Do đó nếu phối hợp với ngồi thiền, người tập sẽ không lo tập sai thứ tự hoặc sự sai biệt nhiều ít giữa các âm quyết.

Một trong những thứ tự để thực hành Lục tự quyết là thực hành theo thứ tự tương sinh. Mộc sinh Hỏa. Hỏa sinh Thổ. Thổ sinh Kim. Kim sinh Thủy. Thứ tự đó là HƯ, HA, HÔ, HÍ, SUY, HU. Chữ HU thuộc hành Hỏa liên quan đến Tam tiêu được làm sau cùng với ý nghĩa làm điều hòa và thông suốt giữa thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu. Một hình thức khác là tập theo thứ tự SUY, HÔ, HƯ, HA, HÍ, HU. Thứ tự này có khuynh hướng tạo ra một vòng năng lượng từ dưới lên trên, từ huyệt Trường cường đi lên theo cột sống đến đỉnh đầu để khai thông mạch Đốc.

Sau thời gian ngồi thiền, cần quan tâm đến động tác xả thiền để giúp khí huyết lưu thông điều hòa và đưa chân khí lưu tán trở về Đan điền hoặc Mệnh môn.

Tác giả : Lương y VÕ HÀ
Theo Sức khoẻ & Đời sống

Khái lược về khí công - mật tông

Khái lược về khí công - mật tông Ngày 17/01/2008 09:14 Karma: 0
Ba món báu mật của Đạo Giáo là TINH – KHÍ – THẦN ; Ba món vật quí giá của Phật Giáo Hiển Tông là PHẬT – PHÁP – TĂNG ; Ba món vật quí báu của Phật Giáo Mật Tông là KHÍ – MẠCH – MINH ĐIỂM.

Mật Tông chú trọng sự luyện tập của cá nhân về Ý và KHÍ ; Từ sự luyện tập ĐIỂM trở thành KHÍ, và từ KHÍ chuyển vận KINH MẠCH, từ đó sinh ra NỘI HỎA ( lửa bên trong ), từ nội hỏa sản sinh ra QUANG MINH ( sự chiếu sáng ), từ quang minh hòa nhập vào biển VŨ TRỤ QUANG, đạt đến cảnh giới của PHẬT QUẢ, đó là sự liên hệ quan trọng, giữa ĐẠI THỦ ẤN và KINH MẠCH.

KINH MẠCH là gì? người xưa có nói : Kinh mạch giả, hành khí huyết, thông âm dương. Trong cơ thể của con người, kinh mạch là những con đường, để khí huyết lưu thông đi nuôi cơ thể.

Sự tu luyện của Đạo gia phái Côn Luân, chú trọng đến phương pháp Thông Tam Tiêu – là Thượng Tiêu, từ̉ hoành cách mô trở lên, trung tiêu là từ hoành cách mô xuống đến bụng, hạ tiêu là từ bụng xuống đến chân.

Kinh mạch được chia ra làm 12 đường kinh mạch là : 1.- Thủ thái dương phế kinh. 2.- Thủ âm minh đại trường kinh. 3.- Túc âm minh vị kinh. 4.- Túc thái dương tỳ kinh. 5.- Thủ thiếu dương tâm kinh. 6.- Thủ thái âm tiểu trường kinh. 7.- Túc thái âm bàng quang kinh. 8.- Túc thiếu dương thận kinh. 9.- Thủ khuyết dương tâm bào kinh. 10.- Thủ thiếu âm tam tiêu kinh. 11.-Túc thiếu âm đảm kinh.12.- Túc khuyết dương can kinh.

Kỳ kinh bát mạch gồm có : 1.- Nhâm mạch. 2.- Đốc mạch. 3.- Xung mạch. 4.- Đới mạch. 5.- Dương duy mạch. 6.- Âm duy mạch. 7.- Dương kiểu mạch. 8.- Âm kiểu mạch.

Sự tu luyện cuả Đạo gia, vận khí trong 12 kinh mạch, gọi là sự vận hành khí trong Đại Châu Thiên, còn sự vận hành khhí trong kỳ kinh bát mạch gọi là Tiểu Châu thiên.

Phương pháp Đại Thủ Ấn của Mật Tông, không phân chia phức tạp như Đạo gia.

Mật tông đem những Tùng Thần kinh, Chủ yếu là Kinh Mạch chia ra làm 7 trung tâm, phân chia như sau : 1.- Đỉnh đầu. 2.- Giữa chân mày. 3.- Ở cổ. 4.- Ở giữa ngực ngang tim. 5.- Ở bụng. 6.- Sinh thực khí. 7.-Ở xương cùng.

Đem nội hỏa gọi là châm lửa, đem mạch phân làm Tả mạch – Hữu mạch và Trung mạch. Do đó, 7 trung tâm và 3 mạch cuả Mật Tông và 12 kinh cùng Bát mạch của Đạo giáo, đại thể căn bản là giống nhau.

Đại Thủ Ấn nói về vận hành khí huyết, thông kinh mạch, nước cam lồ thấm nhuần tạng phủ, thấm nhuần gân cốt, điều hòa Thủy,Hỏa, Phong, Thổ. Những tác dụng trên, đều giống cách luyện tập của Đạo gia trung Hoa.

Phương pháp thông quan của Mật tông là đầu tiên đả thông kinh mạch, sau đó hội tụ lửa thành một điểm, sau đó châm lửa đốt thành ánh sáng; phương pháp nầy giống như phương pháp của Đạo gia là : luyện Tinh hóa Khí, luyện khí hóa Thần, luyện Thần hoàn Hư, Luyện Hư hoàn Đạo.

Ba điểm bí mật của Mật Tông Đại Thủ Ấn là : 1- Quán tưởng. 2- Thất chi thiền tọa. 3- Chú Âm tức là thu nạp hít thở và niệm chú.

Tam quán của Đại thủ Ấn là : Không quán – Giả quán và Trung quán.

Không quán là quán tưởng vạn pháp tự thể là không có ; Giả quán là vạn pháp do duyên sanh hư tướng, sanh sanh diệt diệt. Trung quán là vạn pháp không thiệt, không giả, trung đạo, tức là áp dụng vạn pháp cho đúng lúc đúng thời, đúng Thời và Vị theo như tinh hoa cuả Kinh Dịch vậy.

Tập luyện Tam quán cuả Đại Thủ Ấn, có thể giúp Hành giả phá vỡ Ba điều mê hoặc, chứng đắc Tam trí và thành tựu Tam Đức, cuối cùng vĩnh viễn thoát được Ma đạo.

Ngoài ra còn có sự quán tưởng huyệt Đan điền là Nội quán, còn Ngoại quán, Hành giả có thể nhìn chân dung, Pháp tướng uy nghiêm, hình ảnh vị Thầy của mình, làm đối tượng để quán tưởng; Hành giả nhìn vài giữa chân dung, ngay chân mày cuả Thầy mình một cách mảnh liệt và tưởng tượng từ đó phóng ra, một luồng ánh sáng trắng, phóng đến giữa chân mày của mình. Đây là phương pháp tập trung tinh thần, đem tạp niệm biến thành nhất niệm, tập như thế một thời gian, hành giả có thể tiến đến,tập nội quán, quán tưởng tại đan điền. Khi hành giả tập trung chú ý đến huyệt Đan điền, thì ánh sáng sẽ hiện ra. Ngoại quán, quán tưởng lấy chân dung uy nghiêm vị Thầy của mình làm đối tượng để quán tưởng; còn Nội quán, quán tưởng của Đạo gia, thì đầu tiên quán tưởng huyệt đan điền, sau đến huyệt mạng môn, thứ ba quán tưởng huyệt Dủng Tuyền ở chân, thứ tư huyệt Bách hội, sau đó quán huyệt Mi tâm, giữa chân mày.

Còn nguyên tắc Đại Thủ Ấn của Mật Tông, đầu tiên quán tưởng Đan điền, sau đó đến trung tâm ở bụng, đến trung tâm tim, thứ tư ở cổ, thứ năm mi tâm và chót hết đến đỉnh đầu.

Trong lúc quán tưởng, không được căng thẳng thần kinh, hay chú ý quá sức, mà cần phải thư thả tự nhiên, không gấp rút....

Về phương pháp quán tưởng để làm phát sinh luồng nhiệt năng nội hỏa, thì hoàn toàn nhờ vào sự hít thở và tưởng tượng; khi hít không khí vào, thì tưởng tượng màu trắng, khi đến đơn điền biến thành màu đỏ, khi thở không khí ra, không khí biến thành màu đen. Việc tưởng tượng màu sắc có ý nghĩa như sau: Tưởng tượng ánh sáng trắng là biểu hiện cuả sự hấp thụ thanh tịnh quang minh; màu đỏ là sự phát sinh nội hỏa; màu đen là sự phế thải ra khí dơ và nghiệp chướng, hoặc có thể thay màu đen thành màu lam hay xanh cũng được.

Phương pháp quán tưởng nội hỏa:

Đầu tiên tưởng tượng một điểm tròn màu đỏ, tại huyệt đan điền, cách dưới rốn 4 ngón tay, huyệt nầy là điểm giao thoa của Tam mạch, tả hữu và trung mạch ; Điểm đỏ nầy được tưởng tượng như một đốm lửa nóng như than hồng trong lò, đỏ rực tỏa ra hơi nóng, sau đó hít một hơi dài, vận khí đi vào hai mạch tả hữu, để đi đến huyệt đan điền, thổi cho điểm lửa ở đây, mổi lúc càng nóng hơn ; khi thở ra hành giả tưởng tượng, thở ra không khí màu đen, hít thở như vậy, một vòng gọi là một tức ; cứ 10 tức thì cục lửa hóa ra to lớn hơn và thăng lên một trung tâm lực cao hơn,tức từ đan điền đi lên trung tâm tim, cổ, mi tâm.....Hít vào đếm 6 nhịp, ngưng 2, thở ra 6, ngưng 2 là xong một chu kỳ.

Khi tập lên cao, Thủ Ấn, Thân Ấn có thể biến thành quán tưởng; Chú ngữ biến thành Thu Nạp hít thở; và hít thở có thể hóa thành khí để quán tưởng; đó là sự hợp nhất của Tam Quán.

BÍ MẬT BÊN TRONG CƠ THỂ CON NGƯỜI VÀ ẤN QUYẾT MẬT TÔNG

Tam mật trong Mật Tông là : Thân Mật – khẩu Mật và Ý Mật. Ý nghĩa nội tại của tam mật được giãi nghĩa ở ba cấp bậc luyện tập cao thấp khác nhau.

Nói riêng về thân mật, qui nạp lại có hai ý nghĩa : 1.- Bí mật thân thể của con người và vũ trụ, trời đất có một sự tương quan liên lạcvới nhau rất mật thiết. Nhưng vì đa số con người, không có luyện tập, để có đại trí tuệ, và không được thông qua sự luyện tập hợp lý, nên vĩnh viễn không thể phát huy được, sự tác dụng hổ tương nầy và không khai mở được sự bí mật tương quan của cơ thể con người cùng vũ trụ. 2.- Mật Tông nhận thấy rằng, có nhiều phương pháp luyện tập, truyền thống bí mật, được lưu truyền từ ngàn xưa, có thể giúp con người nhanh chóng, luyện tập trong một khoảng thời gian ngắn, có thể giúp con người liên lạc, cảm ứng được Thần Linh, và kết hợp con người và vũ trụ lại làm một, tiến đến đưa con người đến quả vị Thánh và Phật.

Nhưng từ phạm vi đạo lý và luyện tập Mật Tông của Nhật Bản và Mật tông của Tây Tạng, có những điểm căn bản khác nhau. Phía Mật tông Nhật Bản, sự kết hợp Tâm Thức và Tâm Lý, giữa sự quán tưởng, cùng một cách thức tập luyện nào đó, để kết hợp thành những hình ấn quyết khác, thông qua sự tập luyện ; hành giả có thể thâu đạt được những tiềm năng huyền bí, rất đáng được nghiên cứu và học tập. Về phía Mật Tông Tây Tạng, ngoại trừ uy lực của Ấn Quyết, còn có khí lực của thân người, kinh mạch, tuyến nội tiết của thân người, đều có khả năng bí mật, giúp cho con người TỨC THÂN THÀNH PHẬT, THIÊN NHÂN TƯƠNG THÔNG, HỢP NHẤT VỚI NHAU; Có thể nói là rất gần với sự tập luyện khí và kinh Mạch của Đạo gia Trung Hoa.

Những kẻ bàng quan, những kẻ không hiểu biết, khi xem qua những Ấn Quyết của Mật Tông, có thể hiểu lầm là những trò đùa của ảo thuật. Nhưng thật ra, đó là những khoa học bí mật cao cấp về nhân thể quang học và Nhân Thể Điện và Hóa Học, sẽ được khoa học giải thích nội dung bí mật của nó trong một ngày gần đây.

SỰ LIÊN QUAN GIỮA KHÍ LỰC KINH MẠCH CỦA HAI BÀN TAY – CHÂN ĐƯỢC XỬ DỤNG TRONG LÚC BẮT ẤN QUYẾT.

Ấn quyết là sự chứng nghiệm của cổ nhân để lại; trong khi luyện tập, dùng hai bàn tay để bắt ấn, thì ta sẽ chứng nghiệm và cảm nhận được luồng khí lực, được phát ra rất mạnh từ hai bàn tay, và ta chỉ cần luyện tập trong một khoảng thời gian ngắn là có thể đạt được hiệu quả.

Dùng phương pháp Tam Mật Tương Ứng, mà hằng tâm tập luyện, các ấn quyết một cách tuần tự, chỉ trong một thời gian tập luyện liên tục ; đến khi khí lực trong cơ thể, đã nhờ sự tập luyện, mà tích tụ đầy đủ mạnh ; thì ta có thể vận dụng làm chuyển động toàn khí lực, trong toàn thân ra ngoài hai bàn tay đang bắt ấn quyết, sẽ khiến ấn quyết đang bắt, sẽ phát ra một luồng khí quang sáng rực.

Sau đây là sự liên hệ giữa thủ ấn và kinh mạch:

Bàn tay trái gọi là Thiện Niệm Thủ, còn gọi là Chỉ thủ – bàn tay đình chỉ, ngưng – hay còn gọi là Tam muội Thủ. Bàn tay mặt gọi là Bi Niệm thủ, còn có tên là Quán thủ, Bát Nhả. Mổi bàn tay gọi là Kim Cang Chưởng. Mười ngón tay thường được gọi là Thập Luân Viên Mản, lại còn có tên là Thập Độ, Thập Địa, Thập Giới, Thập Ba La Mật ; Mười đầu ngón tay được gọi là Thập Ba La Mật Phong – tức là mười đỉnh của mười ngọn núi cao. Ngón cái tay trái có tên gọi là Trí, ngón trỏ là Lực, ngón giữa là Nguyện, ngón áp út là Phương, ngón út là Huệ. Ngón cái tay mặt là Thiền, ngón trỏ là Tiến, ngón giữa là Nhẩn, ngón áp út là Giới, ngón út là Thí.

Sau khi luyện tập thủ ấn, đã phát động được nội khí, ta có thể vận động 10 ngón tay và 10 ngón chân, để nội khí trong 12 kinh mạch và kỳ kinh bát mạch, được vận hành, khiến cho khí huyết trong cơ thể được lưu thông tốt, đẩy mạnh quá trình biến dưởng, thông qua đó giúp cho cơ thể chống được bệnh tật và sự tấn công của ngoại giới.

Sự lay động các ngón tay, hay sự khâu vòng các ngón tay lại với nhau, có thể làm cho nội khí vận hành trong cơ thể, sản sinh ra sự kích động, làm cho cơ thể tự rung động, ngả nghiêng và kích động mảnh liệt.

Trong lúc luyện công bắt ấn, các luồng khí lực trong cơ thể, được phát ra theo đầu các ngón tay như sau:

- Ngón cái phát ra khí lực của Thái Âm Phế kinh.
- Ngón trỏ phát ra khí lực của Dương minh Đại Trường Kinh.
- Ngón giữa phát ra khí lực của kinh tâm Bào Lạc.
- Ngón út phát ra khí lực của Tiểu Trường Kinh và Tâm Kinh.

Trong lúc luyện công bắt ấn, các luồng khí lực trong cơ thể, được phát ra theo đầu các ngón chân như sau :

- Ngón chân cái phát ra khí lực của Tỳ Kinh.
- Ngón chân trỏ phát ra khí lực của Can Kinh.
- Ngón chân giữa phát ra khí lực của Vị Kinh.
- Ngón chân áp út phát ra khí lực của Đảm Kinh.

Phàm lệ khi các ngón tay bắt ấn, khâu vòng vào nhau, thì có công năng luyện khí nội tại bên trong của cơ thể ; còn khi các ngón tay nào duổi thẳng, thì có công năng phóng phát khí lực từ bên trong ra ngoài. Do đó, Khí lực nội luyện là Bổ, còn khí lực được phóng ra ngoài là Tả. Vì thế, tùy theo tình hình sức khõe của mổi người, mà bắt ấn Bổ hoặc Tả, để luyện tập – Cơ thể yếy thì Bổ và ngược lại, cơ thể quá dư thừa khí lực thì Tả.

Sự Bổ Tả của khí lực dùng trong các ấn quyết trong lụ́c luyện tập là:

KIM CANG TAM CÔ ẤN: Hai đầu ngón cái và ngón trỏ của mổi bàn tay nối lại vòng tròn, còn các ngón còn lại duổi thẳng ra, hai bàn tay để trước bụng, tay mặt để bên, trên tay trái để bên dưới, ấn nầy dùng để làm bổ khí lực của Thái Âm Phế Kinh và Đại Trường Kinh. Đồng thời bài tiết, phế thải khí lực dư thừa hay thải trược khí của ngón giữa là Tâm Bào Kinh, ngón áp út Tam Tiêu Kinh và ngón út Tiểu trường Kinh.

QUAN ÂM CAM LỘ ẤN: Hai đầu ngón cái và ngón giữa khâu vòng lại, các ngón còn lại duổi thẳng lên, bàn tay để trước ngực. Dùng để tập luyện làm bổ cho khí lực của ngón cái là Thủ Thái Âm Phế Kinh, ngón giữa là Tâm Bào Lạc Kinh, đồng thời làm phóng khí lực hoặc làm bài tiết phế thải khí lực dư thừa hay trược khí của ngón trỏ Đại Trường Kinh, Ngón áp út Tam Tiêu Kinh và ngón út Tiểu trường Kinh và Tâm Kinh.

KIẾT TƯỜNG ẤN: Đầu ngón cái và ngón áp út đeo nhẩn khâu vòng chạm vào nhau, các ngón khác duổi thẳng lên. Được tập luyện để làm bồi bổ khí lực của Thủ Thái Âm Kinh và ngón áp út là Tam Tiêu Kinh, làm phóng khí lực của ngón trỏ là Đại Trường Kinh, ngón giữa là Tâm Bào Lạc Kinh, ngón út là Tiểu Trường Kinh và Tâm Kinh.

NGŨ HÀNH ẤN ĐƯỢC DÙNG TRONG VÕ THUẬT.

Khi giáp trận chiến đấu, nhà Võ Thuật Gia có thể dùng các ngón tay, đan xỏ vào nhau, để bắt thành Ngũ Hành Ấn : Địa – Thủy – Hỏa – Phong – Không. Để nhờ đó, họ có thể tập trung sự chú ý vào trong các ấn quyết nầy, để điều chỉnh năng lượng tâm thức của mình, lên đến các cảnh giới cao, chuẩn bị các thái độ cần phải có, để làm nền tảng, cho các kỷ thuật, hoặc các đòn thế thích hợp với tình hình chiến đấu cần đến.

Ấn quyết trong võ thuật được các sát thủ Ninja Nhật Bản xử dụng trong các cuộc chiến đấu. Những ấn quyết nầy được tuyển chọn cẩn thận từ các hệ thống Yoga của Ấn Độ, và từ các phái Mật Tông của Phật Giáo.

Các ấn quyết nầy được xử dụng, như một kỷ thuật để làm nền tảng, cho sự tập trung tất cả ý chí, cùng phát huy tận dụng toàn thể, năng lực tiềm ẩn của nhà Võ Thuật Gia, để dùng trong một cuộc chiến đấu sinh tử.

Ngũ Hành Ấn Quyết là đại biểu cho Đất, Nước, Lửa, Gió và Không Đại, là những ấn quyết cơ bản, bắt đầu cho 81 ấn quyết, hiệu quả trong tương lai.

81 ấn quyết được lần lượt đan quyện vào nhau, tùy hoàn cảnh và tình thế cần đến, Nhà võ thuật gia có thể làm yên lặng tâm thức của mình, và xử dụng Ngũ Hành Ấn, để mang tâm thức của mình lên cảnh giới cao hơn ( giống như lên đồng ), để tạo những thay đổi trong cơ thể theo ý muốn, như làm giảm áp suất của máu, làm tim đập chậm lại, tập trung toàn thể sự chú ý vào một vấn đề quan trọng nào cần giải quyết ; có thể kéo dài sự tỉnh táo trong một thời gian dài và có thể nín thở từ 3 phút trở lên.

Ấn quyết có thể giúp Nhà Võ Thuật Gia, xử dụng tâm thức của mình một cách hoàn hảo trong mọi hoàn cảnh, dấn thân trong các sứ mạng nguy hiểm.

Những sự tập luyện của phái Mật Tông Nhật Bản (MIKKYO), có thể giúp cho Nhà Võ Thuật Gia, phát triển những quyền năng tâm linh và những sức mạnh siêu hình, dùng để hổ trợ cho các giác quan và những đòn thế trong việc chiến đấu.

Ngoài ra, các sát thủ Ninja cuả các quốc gia Đông phương còn xử dụng cả Cửu Tự Ấn Quyết của Mật Tông trong sự tập luyện và dùng cả trong chiến đấu nữa.

Cửu tự Ấn quyết thường dùng chung với Thập Tự Quyết:

Cửu Tự Ấn Quyết là:

LÂM – BINH – ĐẤU – GIẢ – GIAI- TRẬN – LIỆT – TIỀN.

Thập Tự Quyết: là bùa Tứ Tung Ngũ Hoành vẽ đan xỏ vào nhau. Thập Tự Quyết dùng để ếm các sự xâm phạm của ma quỷ, cùng những hiểm nguy có thể xảy đến cho nhà Võ Thuật Gia, bằng cách liên tục bắt Cửu Tự Ấn, xong dùng kiếm ấn tay mặt, vẽ Thập Tự Quyết trong lòng bàn tay trái, xong nắm lại và thổi phù vào đó, đồng thời bàn tay phóng bùa nầy, vào nơi chổ mình muốn yếm hay vào nơi bị bệnh của bệnh nhân trong khi trị bệnh bằng khí công ngoại cảm cho người khác.

(Mật tông khí công)
Nguồn thuvienvietnam

Kỹ thuật cơ bản VOVINAM-Việt Võ Đạo (Video Clip














Môn phái Nam Hồng Sơn






Ngũ hình quyền

Long, xà, hổ, báo, hạc là quyền pháp dựa theo yếu lý ngũ hành, mô phỏng động tác của năm loài thú. Đây là hệ thống quyền công quan trọng bậc nhất của các phái võ phương Nam (Nam phái).

Long quyền thuộc hỏa, lấy tâm làm chủ, luyện thần. Xà quyền thuộc hành kim, chủ phế, luyện khí (tiên thiên). Hổ quyền thuộc mộc, chủ can, luyện gân. Báo quyền hành thổ, chủ tì, luyện lực. Hạc quyền thuộc thủy, chủ thận, luyện tinh.
Hổ-Hạc giao đấu









trong thế Phục (hổ quyền)





trong thế Hạc chủy hoành (hạc quyền)




trong thế Hoành xà (xà quyền)




trong thế Thanh long xuất hải



trong thế Phiêu trung tử (báo quyền)





Xà-báo giao thủ

Môn phái Nam Huỳnh Đạo (Video Clip)

phan 1
phan 2 value="http://www.youtube.com/v/HJV-7Crretk&rel=1&border=0">
phan 3
phan 4
phan 5
phan 6
phan 7
phan 8
phan 9Tất cả các Video Clip trên được trích từ địa chỉ: http://www.namhuynhdao.com.vn/index.asp?cmd=6

Thăng Long võ đạo lừng danh.


Giadinh.net - Năm 1989, báo giới đồng loạt đưa những thông tin "giật mình" về một "hiện tượng võ thuật mới"... Nhân vật của các bài báo chứa đựng sự kinh ngạc ấy là võ sư Nguyễn Văn Thắng, hiện là chưởng môn của Thăng Long võ đạo lừng danh.

Được thừa hưởng một gia tài võ học khổng lồ từ người ông và cha mình, võ sư Nguyễn Văn Thắng đã bổ sung cho nghệ thuật võ học Việt Nam nhiều giai thoại.

Ngày ấy, tại Đại hội võ thuật toàn quốc, với tiết mục Khẩu lợi công, Nguyễn Văn Thắng đã làm cho cả giới võ lâm phải ngả mũ kính phục. Vóc dáng thư sinh, gày còm (nặng 52 kg) nhưng qua khổ luyện, với hàm răng như thép của mình, ông đã nâng bổng chiếc bàn bao gồm đỉnh đồng, nến, hạc, khung ảnh Đạt Ma sư tổ... nặng tới gần 80 kg.

Hơn 20 năm đã trôi qua, vị võ sư gây chấn động với công phu đặc dị năm xưa vẫn thế, vẫn vóc dáng thư sinh, vẫn kiểu đi lại, nói năng hoạt bát và vẫn phương châm sống: “Thần vượng không ham ngủ, khí vượng không ham ăn, tinh vượng không ham sắc”... Đặc biệt hơn, ông vẫn gây bất ngờ bởi những công phu siêu đẳng của mình.

Lời giới thiệu của một đại cao thủ

Nội công thâm hậu của võ sư Nguyễn Ngọc Nội (môn phái Vịnh Xuân) đã nức tiếng trong làng võ bấy lâu nay. Ông đã từng đăng đài để mọi người thẳng tay đấm vào bụng mấy ngàn quả mà mặt chẳng hề biến sắc.

Vậy nhưng, khi hỏi ông về những cao thủ trong làng võ, đặc biệt về nội công, ông đã không ngần ngại giới thiệu cái tên Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo. Theo võ sư Nguyễn Ngọc Nội thì sự nghiệp võ công của người đồng đạo Nguyễn Văn Thắng đang có những bước tiến bất ngờ.

Dù được sự chỉ dẫn tận tình của võ sư Nội, nhưng vất vả lắm tôi mới gặp được vị võ sư từng gây kinh ngạc trong giới võ lâm năm xưa bởi ông bận túi bụi tối ngày. Thời gian biểu cho một ngày làm việc của ông, ai thấy cũng đều phát hoảng.

Một ngày của võ sư Thắng bắt đầu từ 3 giờ sáng. Khi ấy, tiết trời thanh mát, khí huyết lưu thông, ông lên sân thượng luyện khí công. Luyện khí đến 5 giờ, ông ra công viên Thống Nhất dạy khí công cho môn sinh cao tuổi. Bởi đang làm Chủ nhiệm khoa Giải phẫu bệnh lý (Bệnh viện Thanh Nhàn) nên 7 giờ, ông vội vã đến cơ quan. Làm việc đến 4 giờ chiều, ông về dạy thêm một lớp khí công ngay tại sân thượng nhà mình. Đến 7 giờ tối, lại tiếp tục dạy một lớp võ thuật cũng ngay tại sân thượng ấy.




Dòng dõi oai hùng

Võ sư Nguyễn Văn Thắng là chưởng môn đời thứ hai của Thăng Long võ đạo. Chưởng môn đời trước, cũng là sáng tổ của môn phái chính là cha đẻ của ông, võ sư nổi tiếng Nguyễn Văn Nhân.

Nếu ai đã tận thấy những thế võ cận chiến tuyệt kỹ mà đặc công Việt Nam vẫn sử dụng để hạ gục đối phương trong chớp mắt thì có thể hình dung ra phần nào quyền cước siêu phàm của Thăng Long võ đạo, bởi trước đây lão võ sư Nguyễn Văn Nhân là thầy dạy của rất nhiều đơn vị đặc công.

Cho đến tận bây giờ, làng võ vẫn nói cố võ sư Nguyễn Văn Nhân là người may mắn, bởi ông được thừa hưởng một “gia sản võ học” khổng lồ mà ông nội, ông ngoại của mình truyền lại.

Ông nội cố võ sư là một võ tướng của triều đình nhà Nguyễn, tên là Thống Luận. Cụ Thống Luận theo học Thiếu lâm nội gia, là bạn vong niên với cụ Đề Thám nên võ học cũng hết sức uyên thâm.

Ông ngoại cố võ sư Nhân là cụ Cử Tốn, người chỉ nhắc tới tên, cao thủ khắp nơi đều phải chắp tay bái phục. Cụ Cử Tốn là cử nhân võ thuật cuối cùng của triều Nguyễn. Khi giặc Pháp tấn công Hà Nội, cụ đã cùng Tổng đốc Hoàng Diệu chiến đấu trong thành. Về sau, khi Hà thành thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, cụ Cử Tốn lui về ở ẩn tại khu làng ngay bên ngoài thành Hà Nội (phố Trần Quý Cáp bây giờ).

Đau đáu nỗi nhục mất nước, cụ bí mật mở lò dạy võ, những mong, khi cơ hội đến lại cùng các môn sinh yêu nước của mình vùng lên chống giặc. Lò võ ấy một thời đã thu hút được rất nhiều những môn sinh ưu tú như Mùi Đen, Sáu Tộ (Sáng tổ môn phái Nam Hồng Sơn), Lý Đen, đặc biệt về sau này, người cháu ngoại của cụ - võ sư Nguyễn Văn Nhân, với những tinh hoa võ thuật học được từ cụ đã làm rạng danh tiên tổ.



“Hoàng Phi Hồng của Việt Nam”

Cụ Cử Tốn nhiều giai thoại, hệt như Hoàng Phi Hồng bên Trung Quốc, tinh thần thượng võ luôn song hành với tinh thần ái quốc, thương dân. Bởi là nơi hội tụ những nhân vật kỳ tài, quân Pháp coi lò võ của cụ chẳng khác nào cái gai trong mắt. Chúng tìm cách triệt hạ để Hà Nội không còn “vườn ươm mầm hoạ”. Có lần, chúng bày gian kế hãm hại cụ đến mù hai mắt.

Thế nhưng, trước âm mưu hèn hạ của kẻ thù, cụ vẫn không hề khuất phục. Lò võ của cụ vẫn bí mật chiêu sinh, cụ thì vẫn bí mật truyền dạy võ công cho những đệ tử yêu nước của mình.

Bất lực, giặc Pháp viện đến một âm mưu quỷ quyệt, ấy là dùng giới võ lâm để triệt hạ lão võ sư “cứng đầu” ấy. Chúng dựng võ đài, loan báo khắp Đông Dương rằng, võ sư nào đánh hạ được thày trò Cử Tốn thì sẽ được trọng thưởng Bắc Đẩu bội tinh và được trọng đãi hậu hĩnh sau này.

Âm mưu ấy là vô cùng thâm hiểm, bởi sẽ gây cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn. Nham hiểm hơn, chúng nghĩ, ham mê danh lợi, nhiều người đã “bỏ quên” tinh thần yêu nước, xoay mũi giáo vào chính... người nhà, quyết chí ăn thua.




“Sư phụ của Võ Tòng” ở... Việt Nam

Hiểu rõ âm mưu ấy, cụ Cử Tốn rất đỗi phân vân. Thượng đài thì khác nào mắc mưu quân cướp nước, không thượng đài thì môn phái ô danh, quần hùng khinh rẻ.

Sau cùng, cụ đã nghĩ ra được một kế sách vẹn toàn. Ngày ấy, ở sở thú Hà Nội có con hổ cụt đuôi vô cùng hung dữ. Con hổ to lớn, hễ thấy người là lồng lên, bổ nhào lên chuồng thép như muốn ăn sống nuốt tuơi. Cụ Cử Tốn muốn môn sinh của mình diễn lại tích “Võ Tòng đả hổ” ngay trước mắt quần hùng để tạo thanh thế.

Người được cụ chọn sắm vai Võ Tòng là võ sư Mùi Đen, một đệ tử có thân hình vạm vỡ. Đúng hôm đăng đài, quần hùng tụ tập mấy vòng xung quanh cùng đám sĩ quan Pháp và bè lũ sai nha, cụ Cử mới nói rõ lý do tại sao lại thay màn tỉ thí võ công bằng màn đả hổ. Nghe cụ nói, tất thảy đều cúi đầu im lặng, và nín thở chờ xem màn quần thảo mà mới đầu ai cũng cho là chơi dại ấy.

Sau một hồi trống rộn rã, hai chuồng cọp đã được mấy chục người khiêng ra, đặt ở hai đầu võ đài. Phía bên trái là chuồng con cọp đực cụt đuôi đang gầm lên những tiếng kinh hồn, bên phải là con cọp cái cũng đang nhe nanh, giương vuốt gầm gừ trông vô cùng dữ tợn.

Mùi Đen thượng đài, trông vô cùng hùng dũng. Cứ thế, trước sự kinh hãi của mọi người, ông thủng thẳng vào mở cửa chuồng con cọp đực. Hai bên quần thảo vô cùng ác liệt, sau một giờ, bằng một đòn chí mạng, ông đã bẻ gãy cổ con mãnh thú khát mồi ấy.

Chẳng cần nghỉ ngơi lấy sức, túm gáy “kẻ thua cuộc”, ông vác sang chuồng con cọp cái. Lại một màn kịnh chiến kinh hoàng diễn ra. Và, cũng chừng ấy thời gian, con cọp cái đã bị ông bẻ gãy bốn chân, nằm phủ phục, rên những tiếng thảm thiết.

Phía dưới, quần hùng không ngớt vỗ tay tán thưởng và nể cái trí, cái dũng của thầy trò cụ Cử, chẳng ai còn dám thượng đài nữa. Có người còn gọi võ sư Mùi Đen là “sư phụ của Võ Tòng” vì một lúc đánh chết những hai con hổ. Còn đám thực dân Pháp thì được một phen muối mặt, rẽ đám đông đang hân hoan với những lời tán dương không ngớt, chuồn thẳng.

Sáng lập Thăng Long Võ đạo




Thụ giáo những tinh hoa võ công từ hai bên nội, ngoại, cố võ sư Nguyễn Văn Nhân đã nhanh chóng bộc lộ và phát huy năng khiếu võ học thiên bẩm của mình. Võ sư Nguyễn Văn Thắng kể, ngay trước Cách mạng tháng Tám, tuổi mới đôi mươi, cha ông đã là một thầy võ nổi tiếng ở Hà Nội. Thanh niên, bởi còn sốc nổi, cha ông cũng hay đi đả lôi đài.

Thời ấy, đa phần các võ sĩ thượng đài ra lời thách đấu đều do giặc Pháp giật dây, vậy nên các trận đấu đều vô cùng kinh hãi. Kẻ thua trận nhẹ thì tàn phế, nặng thì bỏ mạng ngay tại võ đài. Bởi thế, hầu hết các võ đài mà giặc Pháp dựng lên thời kỳ ấy, bên cạnh người võ sĩ thách đấu là chiếc quan tài được làm từ mây trông rất đẹp. Ai thua, tử trận thì nằm luôn vào chiếc quan tài ấy.

Một lần thượng đài, chàng trai trẻ Nguyễn Văn Nhân đã vô tình quá tay, đánh trọng thương một võ sĩ đã đăng đài cả tháng mà chưa ai đánh hạ. Theo lời võ sư Thắng thì ngày ấy, sau cú ra tay hơi mạnh đó, cha ông bị chính quyền thực dân truy nã. Sợ hãi, ông đã bỏ trốn biệt tích.

Sau ba tháng, nhớ nhà, ông về, nhưng chẳng dám vào nhà. Ông trèo lên cây bàng cổ thụ ngay gần nhà mà nhìn vào trong, nhìn ngó mọi người. Năm 1944, ông theo cách mạng. Tuần lễ vàng do Cụ Hồ phát động, ông đã đem tài nghệ của mình ra để biểu diễn quyên tiền lấy tiền vàng ủng hộ. Đất nước thống nhất, với những tinh tuý võ công mà mình đã được học, tinh luyện những phương pháp luyện tập võ thuật phù hợp với thể trạng người Việt, ông đã sáng lập ra môn phái Thăng Long võ đạo.

* Võ sư Văn Thắng kể, ông được cha mình truyền thụ võ công từ năm 12 tuổi. Bởi là sĩ quan quân đội nên cha ông dạy võ cho ông theo kiểu... kỷ luật thép.

Bây giờ, ông vẫn nhớ như in cái buổi đầu học võ... khổ sai ấy. Trong gian nhà bếp chật hẹp, năm đầu, cha ông chỉ dạy ông duy nhất một môn... đứng tấn. Tháng đầu tiên, cha ông bắt ông mỗi buổi phải đứng tấn khi que hương cháy hết 1/3 mới thôi.

Tháng thứ hai tăng lên là 1 nửa, tháng thứ 3 là cả que nhang. Đứng im, không nhúc nhích. Hễ động đậy là ngay lập tức chiếc roi trong tay cha vút lên, đau điếng. Hết đứng tấn dưới đất lại đứng trên cọc nhọn, sau một năm thì chuyển sang Ngoại ngạch công. Cha ông bắt ông treo ngược chân lên xà, rồi cứ thế, ngửa cổ xuống dưới nhấc những xô đá đổ lên xô to phía trên. Xô đá mỗi lúc một đầy, một nặng thêm theo thời gian mà cha ông đã định sẵn.

Hai năm, khi thân hình đã dẻo dai, cứng cáp ông mới được cha mình truyền thụ quyền cước...

(Còn nữa)



Đào Thanh Tuy - giadinh.net.vn

Thần điêu đại hiệp" của Kim Dung


Giadinh.net - Ông trông hệt như Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông, một nhân vật võ công cái thế, tóc bạc như cước nhưng lúc nào cũng hồn nhiên như trẻ nhỏ trong tiểu thuyết nổi tiếng "Thần điêu đại hiệp" của Kim Dung...

Từng nổi danh với vai Ốc trong vở tuồng kinh điển Nghêu - Sò - Ốc - Hến, lại thêm cái vẻ hóm hỉnh ngoài đời, ít ai có thể ngờ rằng ông lão có vóc người nhỏ bé tuổi ngoại bát tuần ấy lại là chưởng môn của môn phái lừng danh Bình Định Gia.

Vị sáng tổ và tình bạn với võ tướng triều Quang Trung

Ông là võ sư Trần Hưng Quang, giang hồ thường gọi là Quang “Ốc”, hay còn gọi thân mật là “ông Ốc”. Trong giới võ lâm bây giờ, ông được suy tôn vào hàng trưởng lão. Những năm 90 của thế kỷ trước, đặc biệt khi người con trai Trần Hưng Hiệp tài năng thiên bẩm của ông còn sống, võ phái Bình Định Gia là mái nhà chung của cả vạn môn sinh đam mê quyền cước...

Ở Võ đường Việt - An (sân trường Việt Nam - Angiêri, đường Nguyễn Quý Đức, Thanh Xuân, Hà Nội) lúc nào cũng thấy một ông già ngồi đăm chiêu. Tuy ngồi bất động như thiền nhưng ánh mắt quắc thước của ông vẫn dõi theo từng động tác của đám học trò. Hễ ai tập sai, như điện giật, ông bật dậy, hấp tấp chạy tới, lúc la hét, khi ngọt ngào uốn nắn. Xong việc, ông lại thong thả bước lên thềm.

Ông quê gốc ở Bình Định. Theo đồng đạo võ lâm thì ông là người duy nhất đưa võ cổ truyền Bình Định Bắc tiến thành công. Nói về võ phái của mình, ông bảo, cách đây trên 200 năm cụ Trần Đại Chí, sáng tổ của môn phái, vốn là một võ tướng, võ công đệ nhất, thao lược tài danh, bởi mâu thuẫn với nhà Thanh mà chạy dạt sang đất Việt.

Theo gia phả của dòng họ thì thủa nhỏ, cụ Chí được gia đình gửi vào Thiếu Lâm học võ. Hơn chục năm trời theo thầy miệt mài với thập bát ban thành thạo, cụ lai kinh những mong đem chút tài mọn phụng giúp quốc gia, vinh danh dòng họ.

Thế nhưng, Mãn Thanh vào buổi suy tàn, bất mãn cụ đã đưa cả gia quyến xuôi về phương Nam, đến Bình Định. Tại đây, duyên kỳ ngộ, cụ đã kết bạn với võ tướng Võ Văn Dũng, một trong những tướng tài của vua Quang Trung.

Tri kỷ, hai người suốt ngày trà dư tửu hậu, bàn luận chuyện võ học tinh hoa. Và, những ngày tháng ấy, hai người đã trao đổi cho nhau tất cả những bí kíp võ công mà cả đời mình tầm sư học được. Qua cụ Dũng, cụ Chí đã lĩnh hội được toàn bộ võ công chân truyền của Bình Định, đồng thời, nhờ cụ Chí mà cụ Dũng đã thông tuệ võ học Trung Hoa.

Sau khi cụ Võ Văn Dũng qua đời, cụ Trần Đại Chí đã nghiên cứu, chắt lọc, tổng hợp những tinh hoa của hai nền võ thuật Trung Hoa và Việt Nam, sáng lập dòng Bình Định gia truyền theo nguyên tắc kết hợp giữa cương, nhu, trường, đoản, hư, thực. Đường lối của các võ phái thời ấy thường nêu cao tính chất chiến đấu, không nặng về biểu diễn khoa trương.

“Nuốt chửng” nhiều bí kíp võ công


Ở tuổi lên 10, võ sư Quang Bảo (tên gọi của lão võ sư Trần Hưng Quang) được cha mình truyền thụ võ nghệ. Đến năm 13 tuổi, với tư chất lanh lẹ, tinh tuý của phái võ gia truyền đã được ông cơ bản lĩnh hội. Tuy không muốn để lộ khả năng võ thuật của mình, nhưng tiếng tăm về cậu bé anh hùng ở Phú Cát là ông vẫn ngày một vang xa.

Tiếng lành ấy kinh động đến cả phủ quan, bởi thế, rất nhiều lần họ triệu tập ông đến chỉ với mục đích được thực mục sở thị ông thi triển quyền cước. Năm 14 tuổi, biết đã hết “vốn” để dạy cho đứa con khiếu võ, cha ông bắt đầu hành trình tìm thầy để mở rộng khả năng cho con mình. Gần chục năm ròng, hễ thầy nào có tiếng ở Bình Định thì cha ông đều dắt ông tới học.

Chỉ một vài năm, thậm chí vài tháng thì ông lại lên đường đi tìm thầy mới. Bây giờ, một trong những giai thoại tầm sư học đạo của ông vẫn được người Bình Định truyền tai nhau.

Ngày ấy, thầy Hà Trọng Sơn ở Phước Sơn (Tuy Phước) có môn song kiếm thuộc loại tuyệt kỹ, mỗi khi đường kiếm vung lên thì chẳng khác nào phượng múa rồng bay. Nhu cương hài hoà, mềm mại nhưng sự lợi hại thì kinh hồn bạt vía. Độc chiêu ấy, dù đệ tử rất đông, nhưng không ai lĩnh hội vẹn toàn.

Theo cha, ông đến và thật ngạc nhiên, chỉ sau ít bữa “ăn nhờ ở đậu”, ông đã “nuốt chửng” bí kíp này. Thậm chí, trong đường kiếm ông đi, có nét nhàn nhã, thảnh thơi chẳng khác gì diều bay giữa trời quang đãng.

Tuy tạng người nhỏ bé, nhưng cũng như bao người luyện võ khác ở Bình Định, ông mải mê đi đánh võ đài. Ông kể, thủa ấy, ở Bình Định, bất cứ làng võ nào cũng có võ đài. Người luyện võ thường đăng đài thi thố tài năng, đấu võ để kết bạn, để trau dồi kiến thức. Lần thượng đài nào ông cũng giành cho mình phần thắng.

Đến giờ, người mê võ ở Bình Định hẳn chưa thể nào quên trận thư hùng kinh điển giữa ông và võ sĩ Đào Duy Hạ tại Quy Nhơn. Trận đấu diễn ra dưới sự cổ vũ cuồng nhiệt của cả mấy trăm người. Hai ông giao kèo đánh 3 hiệp, mỗi hiệp là 1 phút rưỡi. Trong 3 hiệp ấy, ai rớt đài trước thì là người thua cuộc.

Vào trận, tuy đã mặc khác màu áo nhưng bởi chiêu thức được tung ra quá nhanh nên khán giả vẫn không thể phân biệt được đâu là ông Hạ, đâu là ông Quang. Ba hiệp đấu trôi qua, cả hai võ sĩ đều thở dốc mà vẫn chưa phân thắng phụ. Đó là trận đấu duy nhất ông gặp đối thủ ngang tài ngang sức.





Dùng thiết đầu công “đột nhập” tàu hỏa đang chạy

Ông theo nghiệp tuồng, cũng là một “tài sản” gia truyền. Và, trong cuộc đời nghệ sĩ của mình, ông đã ghi dấu ấn bởi đã đưa võ vào tuồng.

Năm 1980, nghỉ hưu, ông về Hà Nội sinh sống. Suốt mấy chục năm sống xa nhà, vào Nam ra Bắc, ngay chuyện đi tàu của ông cũng có giai thoại.

Một lần, ra đến nhà ga thì tàu đã chuyển bánh. Bế hai con nhỏ trên tay, túi khoác trên lưng, ông cắm đầu cắm cổ đuổi theo. Khi vừa theo kịp thì cửa toa tàu đã đóng im ỉm. Quá cấp bách, ông đành sử dụng luôn món “Thiết đầu công” mà mình đã khổ công rèn luyện. Cú húc đầu như trời giáng ấy đã làm cánh cửa sắt bật tung. Vẫn ôm con trên tay, ông vọt lên tàu một cách nhẹ nhàng.

Năm 1982, Bình Định Gia chính thức khai trương ở Hà Nội. Một lần kéo đệ tử lên CLB võ thuật quận Đống Đa biểu diễn, võ phái của ông đã làm những quan chức của Sở Thể dục - Thể thao Hà Nội mê mệt. Và, ngay lập tức họ đã mời ông tham gia Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội.

Chàng trai trẻ và những lần bất đắc dĩ xuất lộ tuyệt kỹ



Ông có 3 người con, 2 trai một gái. Cố võ sư Trần Hưng Hiệp là thứ hai.

Với võ sư Quang thì dường như Hiệp sinh ra là để học võ. Ông kể, ngay từ tấm bé, ông đã phát hiện ra năng khiếu võ thuật thiên bẩm của cậu con trai. Bởi thế, những bài quyền, thế cước ông rèn cặp, Hiệp đã lĩnh hội rất nhanh. Nối nghiệp cha, Hiệp cũng theo học môn Tuồng cổ ở trường Sân khấu - Điện ảnh và dốc toàn bộ thời gian còn lại vào việc luyện rèn võ thuật.

Thời gian ấy, hễ nghe tiếng ở đâu có thầy giỏi là ngay lập tức anh tìm đến bái sư theo học. Bởi thế, khi tuổi mới đôi mươi, vốn liếng võ công của anh đã được võ lâm đồng đạo bái phục, kính nể và trở thành vị võ sư trẻ tuổi nhất trong làng võ cổ truyền.

Lão võ sư Trần Hưng Quang nói, nhờ có Hiệp mà Bình Định Gia trở nên nổi tiếng, được đông đảo môn sinh theo học, quần hùng mến mộ.

Tuổi trẻ, võ công cái thế, nhưng tính Hiệp điềm đạm, trầm tĩnh, sống nội tâm. Lão võ sư kể, có lần trong khu nội trú trường Sân khấu - Điện ảnh, một nhóm đầu gấu bên ngoài vào trường quậy phá, bắt nạt sinh viên. Không muốn va chạm nhưng cũng chẳng thể ngồi yên, Hiệp đành ra mặt.

Chọn tên có vẻ gấu nhất, anh mời vào phòng mình nói chuyện. Thấy cậu sinh viên người nhỏ bé, mặt mũi thư sinh, vị khách mời không những không tiếp thu những lời phải quấy mà còn tỏ thái độ thách thức, chửi bới om sòm.

Biết không thể nói suông với kẻ không biết điều ấy, đứng phắt dậy, Hiệp bảo: “Nếu anh thích đánh nhau thì đánh nhau với tôi! Nhưng cho tôi hỏi, chân tay anh liệu có cứng bằng chiếc chân giường này không?”. Hỏi chưa dứt câu, bất thình lình anh tung chân đá quét. “Dính chưởng”, chiếc chân giường vuông thành sắc cạnh gẫy gập làm đôi, văng ra phía cửa. Nhìn thấy cảnh ấy, kẻ “đầu gấu” mặt cắt không ra máu, ú ớ lùi ra rồi hô lũ đàn em chuồn thẳng.

Sau này, bởi ấn tượng với võ công thâm hậu và tinh thần thượng võ ấy, gã đầu gấu đã tìm đến anh, bái làm sư phụ, tu chí luyện rèn võ nghệ.

Cũng trong thời gian ấy, một chiều đi học về, gặp người quen anh được mời vào quán uống bia. Bàn bên cạnh, mấy gã đã ngà ngà, nói năng toàn lời tục tĩu. Hết chuyện, thấy bàn bên cạnh có cậu trai cứ ngồi im, chẳng nói chẳng rằng (anh không uống được bia) thì bọn chúng lấy làm... ngứa mắt. Chúng buông lời bóng gió cợt nhả, rồi cười hô hố với nhau.

Thấy vậy, anh quay đi, chẳng thèm để ý. Sự phớt lờ của anh khiến chúng càng thêm tức tối, ỷ đông, chúng quay sang gây sự. Mấy “chiến hữu” cùng bàn với anh ai cũng nóng mắt, nhưng thấy “quân ta” yếu thế hơn nên chẳng ai dám động thủ.

Trấn an các bạn, anh đứng dậy quay sang bàn bên. Giơ cốc bia đang uống dở lên, hướng về phía đối phương, anh bóp mạnh. Chiếc cốc vỡ vụn, phát ra những âm thanh sởn da gà. Chưa dừng lại, tay phải anh tung luôn một cú thôi sơn vào bức tường kiên cố ngay bên cạnh.

Cú đấm uy lực đến nỗi cả bức tường và mái nhà rung lên như vừa xảy ra địa chấn. Thấy đã gặp phải cao thủ, biết có đông cũng đánh không lại, nhóm anh chị bàn bên bỗng im phăng phắc. Phía bên này, sau những cú thị uy ấy, Hiệp lại chậm rãi ngồi xuống như chẳng có chuyện gì.

Linh giác công – công phu đệ nhất

Cho đến bây giờ, võ lâm đồng đạo vẫn suy tôn Linh giác công của Trần Hưng Hiệp là thiên hạ đệ nhất, không ai bì kịp. Biểu diễn tuyệt chiêu này đòi hỏi người võ sư phải có công lực thượng thừa và cái tâm luôn tĩnh.

Với tuyệt chiêu này, đã nhiều lần Hiệp làm người xem thót tim vì sợ. Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, khi biểu diễn Linh giác, Hiệp thường đặt quả cam, táo, hoặc một mẩu thân chuối dài chừng gần chục cm lên đỉnh đầu người đối diện. Sau ấy, bằng mảnh vải đen, anh bịt kín mắt mình, tay cầm kiếm sắc, từ từ tiến tới. Mắt bịt kín, nhưng bằng giác quan, anh vẫn xác định được vị trí của mục tiêu và vung kiếm chém tới...

Dù chém ngang, hay dọc thì đường kiếm ngọt ngào ấy cũng chỉ phạt đôi vật thể trên đầu, chứ chẳng mảy may làm tổn thương một cọng tóc của người trợ diễn.

Ngay cả lão võ sư, đã nhiều lần xem con mình biểu diễn, nhưng lần nào ông cũng... hoảng. Ông cấm con mình tuyệt đối không được dạy chiêu thức nguy hiểm ấy cho ai. Dặn con vậy không phải vì ông muốn giữ độc chiêu cho gia đình mình mà vì... sợ. Đám học trò hiếu động, học chưa đến nơi đến chốn, chém phạt đầu nhau thì vô cùng nguy khốn.

Tuy quá nổi danh với Linh giác công nhưng sau này, mọi người đã không được thấy anh biểu diễn tuyệt chiêu này nữa. Anh là người cẩn trọng, không bao giờ thích chuyện phiêu lưu hay những trò chơi nguy hiểm. Bởi thế, một lần, diễn Linh giác bị hỏng, anh đã quyết tâm từ bỏ sở trường này.

Lần ấy, Bình Định Gia tổ chức biểu diễn ở Nhà văn hoá huyện Từ Liêm. Tiết mục Linh giác trứ danh của Hiệp được toàn thể khán giả đón đợi. Lần thứ nhất, quả táo Tầu nhỏ xíu trên đầu người trợ diễn đã bị anh chém toác đôi. Nhiều người kinh hãi không dám nhìn nhưng cũng nhiều người ưa cảm giác mạnh, muốn anh diễn lại.

Không thể chối từ thịnh tình của người mến mộ, anh lại bịt băng đen che mắt, lại tiếp tục diễn trò. Thế nhưng, khi thanh kiếm sáng loáng trong tay vừa vung lên thì anh bỗng khựng người lại, buông kiếm xuống. Tiếp tục một lần nữa cũng vẫn vậy, thanh kiếm trên tay anh chẳng thể lượn một đường ngọt xớt như nó vẫn thường thi triển, vẫn làm người xem kinh hãi.

Có lẽ, linh giác đã mách bảo anh rằng, trong một tâm trạng không được thoải mái, anh không nên dụng trò nguy hiểm ấy. Đắn đo, sau cùng, anh đã xin lỗi khán giả và thay bằng việc đặt quả táo lên đầu người trợ diễn thì anh đặt quả táo lên thành ghế. Nhát kiếm chí tử được tung ra. Quả táo bị chém phạt phần dưới, tung lên rồi lăn lông lốc trên sàn nhà. Mọi người vẫn vỗ tay rầm rập. Thế nhưng, trên mặt anh vẫn không thấy nụ cười.

Chào khán giả, anh vội vàng lùi vào phía trong. Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, về nhà con trai ông đã kể cho ông “sự kiện lạ lùng” ấy. Và, anh còn tiết lộ, hàng đinh đóng trên thành chiếc ghế đã bị anh chém bay hết mũ. Nếu hôm ấy, nếu là người thật thì không biết hậu quả thế nào. Vậy là, nghe theo lời khuyên của cha, cùng với tính cẩn trọng của mình, anh đã từ bỏ môn võ mà mình đã khổ công rèn luyện.

Khi tài năng đang độ chín muồi, khi Bình Định Gia đang khởi sắc, phát triển võ đường đến hầu hết các tỉnh phía Bắc với hàng vạn môn sinh theo học thì vì một tai nạn giao thông thương tâm, Trần Hưng Hiệp đã không còn nữa. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, từ hôm nghe tin con trai mất, ông cứ thấy mình như đi trên mây khói, người như không còn chút trọng lượng, sức lực nào.

(còn nữa)

Đào Thanh Tuy - giadinh.net.vn